Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2014

TỪ MÈO VẠC ĐẾN PAKISTAN: HÃY ĐƯA TÔI VỀ VIỆT NAM



BizLIVE - Một người H'mong có quốc tịch Việt Nam bị cảnh sát vùng Kashmir của Pakistan giam giữ trong nhiều tháng đã khiến cho giới chức ở đây nhức đầu trong việc xác định anh ta là ai, hãng tin Pháp AFP dẫn lời các quan chức nước này cho biết.

Một người H'mong có quốc tịch Việt Nam bị cảnh sát vùng Kashmir của Pakistan giam giữ trong nhiều tháng đã khiến cho giới chức ở đây nhức đầu trong việc xác định anh ta là ai, hãng tin Pháp AFP dẫn lời các quan chức nước này cho biết.

Không manh mối

Vừ Gia Pó bị bắt khi đang lang thang bằng chân trần mà không có bất cứ giấy tờ tùy thân nào ở thị trấn Athmuqam vốn nằm trên Đường kiểm soát (LOC - đường ranh giới tạm thời phân chia vùng Kashmir đang có tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan), viên cảnh sát Yasin Abbasi nói.

Đây là khu vực có nhiều hoạt động quân sự, nơi đã chứng kiến nhiều cuộc chiến giữa hai quốc gia Nam Á.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ở Hà Nội cho biết anh Pó bị bắt giữ "vào khoảng tháng 10 năm 2013".

Lúc đầu, giới chức Pakistan hoàn toàn không có manh mối gì để biết anh ta là ai và đến từ đâu.

“Anh ta trông giống người Trung Quốc hay người Nhật và không nói được bất kỳ tiếng địa phương nào. Anh ta không có giấy thông hành, không có giấy tờ tùy thân, không có gì cả,” Abbasi nói.

“Anh ta cũng không nói và không hiểu được tiếng Anh trong khi chúng tôi thì không nói được ngôn ngữ của anh ta. Thật là ác mộng,” người cảnh sát này nói thêm.

Trước khi được giao cho cảnh sát, Pó đã bị giam được vài tháng và đã bị nhiều cơ quan Chính phủ Pakistan thẩm vấn.

Cho đến gần đây, giới chức hành chánh địa phương đã xác định được quốc tịch người đàn ông này bằng cách cho anh ta xem cờ và đồng tiền của một số quốc gia đông Á.

“Khi nhìn thấy quốc kỳ và tiền Việt Nam, anh ta phản ứng và chúng tôi hiểu rằng anh ta đến từ Việt Nam,” ông Arshad Mirza, một quan chức cao cấp ở Quận Neelum nói với AFP.

“Hãy đưa tôi về Việt Nam”

Trong đó, Pó nói bằng tiếng Hmong rằng: “Tôi là Vừ Gia Pó đến từ xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, Việt Nam.”

“Tôi đang đi lao động ở Trung Quốc. Trên đường về, tôi bị lính Pakistan bắt giữ đã ba tháng. Hãy đưa tôi về Việt Nam để tôi đoàn tụ với vợ, con và gia đình,” anh nói.

“Tôi không phải người Trung Quốc. Tôi không thể ở Trung Quốc được. Tôi muốn về Việt Nam. Tôi sẽ trả bất cứ giá nào. Vu và Phinh là những người đã đưa tôi đến Trung Quốc lao động.”

Hiện không rõ hai người ‘Vu’ và ‘Phinh’ là ai.

Mirza nói Pó đã được gia đình nhận dạng và giờ đây anh ta đang đợi tin về thủ tục để hồi hương.

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nói với AFP rằng Pakistan đã thông báo với Việt Nam về vụ bắt giữ hôm 31/12.

Sau đó, đến ngày 21/3, Đại sứ quán Việt Nam ở Pakistan cho biết họ đã có cuộc tiếp xúc lãnh sự với Vừ Gia Pó, theo lời ông Bình. 

“Sức khỏe anh ta bình thường, tinh thần ổn định và muốn đoàn tụ với gia đình ở Việt Nam càng sớm càng tốt,” ông Bình nói.

“Vào lúc này, sứ quán Việt Nam ở Pakistan đang tích cực làm việc với giới chức địa phương để hoàn tất các thủ tục theo quy định của Pakistan để đưa Vừ Gia Pó về nước.”

Theo BBC

NHÌN CRIMEA NGHĨ VỀ BIỂN ĐÔNG

Dư luận viên Ngọc Phạm

Khi luật quốc tế tỏ ra thiếu hiệu quả đối với một cường quốc trên bàn đàm phán, phải chăng đã hết giải pháp hòa bình trong tranh chấp?

Mới đây, tạp chí The Diplomat đã xuất bản bài nghiên cứu “Ngoại giao trong vấn đề Crimea và biển Đông” của hai nhà nghiên cứu Sophie Boisseau du Rocher và Bruno Hellendorff (Bỉ). Hai tác giả chỉ ra những điểm tương đồng đáng lưu ý, những bài học kinh nghiệm cũng như giải pháp cấp thiết trong quản lý tranh chấp tại biển Đông từ trường hợp khủng hoảng Crimea.

Trung Quốc xưa nay thích “chơi rắn”

Ngày 18-3, Trung Quốc (TQ) và ASEAN đã có cuộc họp tại Singapore để tiếp tục theo đuổi những thương nghị về Bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC), đồng thời đàm phán về việc thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC). Cuộc gặp gỡ lần này diễn ra tại thời điểm TQ đang quyết liệt ưu tiên theo đuổi những tuyên bố về chủ quyền hàng hải của quốc gia này.

Hồi tuần trước, Bắc Kinh và Manila vừa trải qua thêm một cuộc tranh cãi sau khi tàu cảnh sát biển TQ chặn nguồn tiếp tế của hạm đội thủy quân Philippines hiện đang đóng quân tại quần đảo Trường Sa.

Nhìn một cách tổng quan hơn về động thái đó của TQ, nhiều chuyên gia đưa ra các nhận định TQ ngày càng “ưa chuộng” việc sử dụng các biện pháp đe dọa, cũng như các phương tiện mang tính vũ lực để tăng cường ảnh hưởng ở biển Đông.

TQ đã và đang tiến hành xây dựng lực lượng hàng hải một cách mạnh mẽ, bao gồm việc tập trung các đơn vị hải quân thành một đơn vị cảnh sát biển thống nhất; phát hành các tập bản đồ với tuyên bố đường 10 đoạn trên biển Đông. Thậm chí là đơn phương tuyên bố vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) khu vực biển Đông và ngay cả trên vùng đảo đang tranh chấp với Nhật Senkaku/Điếu Ngư.

Tất cả động thái trên đã và đang góp phần biến khu vực biển Đông thành “cái vạc của châu Á”, khái niệm mà chuyên gia Robert Kaplan đã đặt tên cho quyển sách cuối cùng của mình: “Cái vạc của châu Á: Biển Đông và việc kết thúc sự ổn định ở khu vực Thái Bình Dương”. Một bức ảnh trên boong tàu Liêu Ninh được lưu hành rộng rãi ghi lại hình ảnh người thủy thủ TQ đưa cao khẩu hiệu “Giấc mơ Trung Hoa, giấc mơ của một lực lượng quân đội hùng mạnh” đã không giúp làm giảm những căng thẳng trong khu vực trước tham vọng của TQ.

Đảo Sơn Ca trên biển Đông thuộc quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa). Ảnh: Đức Hiển

Nga đã chọn “đánh” mà không “đàm”?

Cuộc thảo luận giữa TQ và ASEAN diễn ra ngay trong giai đoạn khủng hoảng Crimea ở Đông Âu. Trong trường hợp này, tương tự tranh chấp biển Đông, công pháp quốc tế cũng như các áp lực từ phía Liên minh châu Âu (EU) cũng chưa thể hiện hiệu quả trước những quyết tâm của Nga trong việc quyết định số phận của Crimea, vốn là một phần lãnh thổ của Ukraina.

Mặc dù bị Mỹ, châu Âu và nhiều quốc gia khác nhận định là bất hợp pháp nhưng cuộc trưng cầu ý dân tại Crimea vẫn diễn ra, đồng thời được chính quyền Putin chấp nhận sáp nhập. Các căn cứ quân sự của Ukraina tại Crimea nhanh chóng bị các lực lượng thân Nga áp đảo và sự kiểm soát chính trị từ Kiev dường như bị vô hiệu hóa.

Về thực tế, chính quyền Putin có những lợi thế nhất định. Nước này vừa cương quyết, đồng thời sử dụng “chiêu” đe dọa để thúc đẩy thành công một cách nhanh chóng lợi ích của nước ngày tại Crimea. Đồng thời, Moscow đáp trả những chỉ trích từ châu Âu và Mỹ bằng cách gợi lại những can thiệp của phương Tây đối với Kosovo và Libya.

Ngoài những tuyên bố trừng phạt Nga từ phương Tây thì những hậu quả đối với quan hệ Nga-EU và sự ổn định của Đông Âu cho đến nay vẫn là chưa rõ ràng. Tuy nhiên, động thái của Nga trong bối cảnh hiện nay cho thấy việc sử dụng bạo lực đang chiếm ưu thế trong vấn đề ngoại giao, vốn là một quan niệm lạc hậu, lỗi thời. Quan niệm ngoại giao theo kiểu “cây gậy” này, theo Sophie Boisseau du Rocher và Bruno Hellendorff, sẽ gieo rắc tai ương cho nhiều nơi. Đặc biệt là những gì Nga đã làm và phản ứng của châu Âu sẽ được Bắc Kinh và các nước Đông Nam Á quan sát rất kỹ lưỡng.

NGOẠI CẢM – KẺ THÙ CỦA THÂN NHÂN LIỆT SỸ

LTS: Ông Trần Đình Huân - Thượng sĩ, CBB Trung đoàn đặc công 117 và 198 Anh hùng - BTL Đặc công. Đồng thời, là Trưởng ban liên lạc toàn quốc thân nhân liệt sỹ Mặt trận 31 sử dụng địa chỉ facebook Huan Tran Dinh có lời thách đấu với hai vị Thiếu tướng Quân đội Nguyễn Chu Phác và Thiếu tướng Công an Ngô Tiến Quý về sử dụng ngoại cảm trong xác định danh tính Liệt sỹ. Củ Hành xin trân trọng giới thiệu lời thách đấu của ông tại facebook của ông:

THÁCH ĐẤU HAI THIẾU TƯỚNG MƯỢN DANH KHOA HỌC

1. THIẾU TƯỚNG QUÂN ĐỘI – “TIẾN SỸ” NGUYỄN CHU PHÁC.

2. THIẾU TƯỚNG CÔNG AN NGÔ TIẾN QUÝ

Đã hơn 20 năm, nhân dân và thân nhân liệt sỹ đã bị lôi kéo vào vòng xoáy của u mê, của những giai thoại kinh thiên động địa của cái gọi là Ngoại cảm và Áp vong tìm mộ liệt sỹ, của cái gọi là nghiên cứu khoa học tâm linh, nghiên cứu tiềm năng con người.Hơn 20 năm, bằng cách lợi dụng truyền thông, lợi dụng hình ảnh của những người có uy tín, địa vị trong xã hội. Những kẻ mang danh “ngoại cảm” và những kẻ đang lợi dụng danh nghĩa “nghiên cứu khoa học tâm linh” đang cổ suý, thực hiện hành vi lừa đảo, trục lợi trên xương máu của các Liệt sỹ đã hi sinh vì Tổ Quốc, khắc thêm nỗi đau cho hàng vạn gia đình liệt sỹ.

Để rồi, với tất cả những bằng chứng trên mặt trận 31, với sự tập trung của hàng ngàn gia đình thân nhân liệt sỹ trên cùng mặt trận, bộ mặt thật của những kẻ mang danh “Ngoại cảm”, những kẻ đội lốt khoa học, Nghiên cứu, Tâm linh, Tri ân, Tâm đức và nhiều thứ ngôn từ hoa mỹ khác nay đã lộ nguyên hình với bản chất mê muội, hoang tưởng, cuồng vỹ, lừa đảo, thất đức.

Bên cạnh đó là sự ấu trĩ trong công tác quản lý khoa học, sự lỏng lẻo, mơ hồ trong hệ thống quản lý nhà nước đã thả nổi suốt hơn hai thập kỷ qua. Đồng thời, với đội ngũ tham gia “nghiên cứu khoa học tâm linh” là những người có địa vị xã hội cùng những học hàm, học vị đến tột đỉnh, thậm chí, có cả những người từng là Bộ trưởng, các sĩ quan cao cấp của Quân đội và Công an và nhiều cán bộ mang những chức danh quan trọng khác. Quá trình nghiên cứu của họ đã đi lệch hướng, mất kiểm soát, áp dụng tùy tiện và dần chuyển thành các tệ nạn xã hội. Thêm vào đó là cả hệ thống thông tin đại chúng cả chính thống và không chính thống, tập trung ra sức tung hô, cổ súy, tuyên truyền dưới dủ mọi hình thức, thậm trí cả hình thức khen thưởng của một số cơ quan quản lý nhà nước cấp vỹ mô. Hàng vạn gia đình thân nhân liệt sỹ bị lừa, hàng vạn hài cốt liệt sỹ bị chúng mang ra ngụy tạo, tung hứng, nghiên cứu, thực nghiệm, kiểm nghiệm, thực hành và rồi chúng hành nghề trên xương máu của những người con dân đất Việt đã hy sinh xương máu cho độc lập dân tộc và cho sự toàn vẹn lãnh thổ.. Vấn nạn này đã lây lan trở thành quốc nạn, hệ luỵ của vấn đề này chính là việc các gia đình bị lừa đảo đất đen, tổ mối thành hài cốt Liệt sỹ, nghiêm trọng hơn, còn cả hành vi đào bốc trộm hài cốt các Liệt sỹ ở các Nghĩa trang. Chúng đã nhạo báng những tình cảm thiêng liêng của các thế hệ thân nhân liệt sỹ, gây bao tổn thất, mất mát trên mồ hôi nước mắt của họ.Những hành động đó làm băng hoại đạo đức xã hội, hàng vạn liệt sỹ mãi không được trả về đúng tên của mình, nhân dân mất lòng tin vào công tác chính sách đền ơn đáp nghĩa của Đảng, Nhà nước, Quân đội.

Sự thật đã nhãn tiền trước bàn dân thiên hạ, đã bị lột trần trước khoa học chân chính. Nhưng dường như những thủ phạm của quốc nạn này vẫn đang cố bấu víu vào mớ lý luận mù mờ, lập dị của một thứ khoa học di bản có một không hai này. Không đủ can đảm để nhìn thẳng vào sự thật là chính những người này đã trở thành giặc, trở thành kẻ thù của thân nhân liệt sỹ, là những kẻ đã làm ô uế những chốn linh thiêng, hủy hoại lòng tin của nhân dân, làm đảo lộn xã hội và ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh quốc gia và sự tồn vong chủa chế độ. Chính bản thân những người này cũng đã nhận ra những sai lầm ấy nhưng không đủ can đảm để thừa nhận và không thể dừng lại và đành nhắm mắt làm ngơ trước nỗi đau của nhân dân!

Vì vậy:

Tôi –Thượng sĩ Trần Đình Huân - Cựu chiến binh thuộc Trung đoàn Đặc công 117 và 198 Anh hùng của Bộ tư lệnh Đặc Công – Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang. Đồng thời với tư cách là thân nhân liệt sỹ và là đại diện cho hàng vạn thân nhân liệt sỹ Mặt trận 31 xin quyết đấu một cách sòng phẳng với hai vị Thiếu tướng có danh tính nêu trên:

Mục đích: Làm rõ trắng đen, đúng sai về khả năng Ngoại cảm trong việc áp vong tìm mộ liệt sỹ. Đánh giá đúng bản chất của cái gọi là nghiên cứu khoa học và những cái gọi là “thành tựu” của việc ứng dụng khoa học của hiệp hội UIA và hai vị thiếu tướng trong phạm vi này. Trả lại sự trong sáng, lành mạnh cho khoa học chân chính. Xóa bỏ khoa học trá hình và ngăn ngừa việc lợi dụng khoa học.

Hình thức: Đấu loại trực tiếp bằng các bằng chứng kết quả thực nghiệm ngay trên hiện trường thực tế, bằng các kiểm nghiệm nghiêm khắc, dưới sự chứng kiến của các cơ quan chuyên trách và thông tin đại chúng.

Địa điểm: Nơi an táng gần 12.000 hài cốt liệt sỹ của mặt trận 31 – Xương máu của cha anh chúng tôi. Nơi đó đang có gần 1 vạn ngôi mộ “Liệt sỹ Chưa biết tên”.

Nhân lực tham gia:

Phía bị thách đấu: 

1. Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác – “Tiến sỹ” – trưởng bộ môn “Cận Tâm Lý” - Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người,

2. Thiếu tướng Ngô Tiến Quý – Người đã lấy danh nghĩa Viện Khoa học hình sự - Bộ Công An để tham gia trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người,

THÓI BỊT MẮT CHÉM GIÓ CỦA CÁC NHÀ ZÂN CHỦ


Thông thường, trí thức được hiểu một cách nôm na là người có một trình độ học vấn ở bậc cao, những đóng góp trí lực của họ là động lực quan trọng trong sự chuyển hóa xã hội. Chính vì vậy nên, các thế lực thù địch cũng đang cố gắng lợi dụng điều này để thực hiện mưu toan của họ đối với Việt Nam. Trách nhiệm xã hội đang đòi hỏi người trí thức có trách nhiệm luôn cẩn trọng trước khi đưa ra quan điểm, ý kiến riêng, bởi vì, không chỉ đơn thuần trên danh nghĩa “tự do ngôn luận” hay có sự “bất đồng quan điểm” để “nói lấy được,” mà muốn đánh giá hay phê phán về một vấn đề, một con người hoặc một luận thuyết, phải nhìn nhận khách quan từ nhiều phía, đặc biệt là từ góc độ giá trị lịch sử, nhân văn, đạo đức, phải dựa trên những giá trị chuẩn mực truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Ngày 4-5-2014 trên website của “Mõ làng” RFA có bài với giật Tít “Làm thến nào công lý không bị phỉ báng” có cuộc phỏng vấn TS. Nguyễn Quang A một nhân vật không lạ lẫm gì trên thế giới mạng của các “nhà dân chủ”, được sự “mớm mồi” của người phỏng vấn vị này đã đưa ra những nhận xét một cách hồ đồ, vô trách nhiệm và đầy ác ý rằng: “Đây là cái bi kịch của ông Hồ Chí Minh, vì ông là người hết sức bất bình trong sự bất công và phân biệt đối xử của thực dân Pháp. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến việc ông ta phát động một phong trào cách mạng để xóa bỏ sự bất công đó” và “Đáng tiếc là ông Hồ Chí Minh đã áp dụng một phương pháp, một hệ thống mà cái hệ thống đấy đã tạo ra một chính quyền thực sự đã lặp lại những bất công của thực dân Pháp. Thậm chí không chỉ lặp lại mà còn làm trầm trọng thêm, đấy là chế độ độc tài. Rất đáng tiếc là như vậy.” !?. Với những kiểu “phán” như trên chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những nhận định, lập luận mang nặng tư duy suy luận chủ quan, vô căn cứ và thiếu khoa học. Vậy họ là ai và những gì là sự thật đằng sau lời nói của họ? Không cần nói cũng có thể biết tác giả của những bài viết xuyên tạc về tình hình đất nước, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ, kích động, phá hoại đường lối của Đảng, đa phần là những người bất mãn về chính trị, trong tâm trí của họ luôn đặt cái “Tôi” lên hàng đầu, họ ảo vọng rằng “Trong biến sẽ làm nên chuyện”. Những điều họ nói rất dễ mê hoặc một bộ phận công chúng còn thiếu cái nhìn phê phán và tỉnh táo.


Trại chủ U-no Quang Áaa đang mơ về một nền dân chủ mua bằng tiền kiểu Thái.

Thông qua Internet, các blogger, các “nhà dân chủ” trong và ngoài nước cấu kết với nhau, tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu Đảng và Nhà nước, chia rẽ Đảng với nhân dân, xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, vu cáo, bôi đen chế độ Việt Nam. Họ tung ra các quan điểm, nhận định sai trái,hòng đánh vào nền tảng tư tưởng gây hoang mang, dao động về hệ tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Họ phủ nhận chủ nghĩa Marx-Lenin, cho rằng chủ nghĩa Marx-Lenin đã lỗi thời, chỉ thích hợp với thế kỷ XIX, cùng lắm là đầu thế kỷ XX !? Là người Việt Nam,những con người thuộc đủ mọi thế hệ, nguồn gốc học vấn, biết vượt qua những định kiến để đặt trọn niềm tin vào Ðảng Cộng sản, tận hiến với dân tộc trên con đường đấu tranh vì nền độc lập của đất nước. Tấm gương của các trí thức đó là minh chứng thuyết phục nhất về một ý thức dân tộc chân chính, tuyệt đối vô tư, biết nhận ra và đứng về phía lẽ phải. Cũng thời gian gần đây, trên một số trang mạng có đăng tải những bài viết với nội dung luận bàn về “Những ảo tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh”; hoặc: “Đảng Cộng sản Việt Nam giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng chỉ nói mà không làm”… Đây là suy nghĩ của những người thiếu thiện chí, cố tình xuyên tạc đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nhưng lại núp dưới danh nghĩa “tự do ngôn luận, dân chủ, xây dựng, góp ý!? Và Sự thật không thể đảo ngược đó là: Với tư cách là người đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng vào quá trình “phi thực dân hóa”, làm sụp đổ hoàn toàn chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.

TÀU NGẦM TRƯỜNG SA THAY ÁO MỚI CHUẨN BỊ RA BIỂN

Sau lần chạy thử nghiệm thành công trên hồ lớn, ông Nguyễn Quốc Hòa, Giám đốc Công ty cơ khí Quốc Hòa (TP Thái Bình) đã cho sơn lại toàn bộ bề mặt của tàu ngầm mini Trường Sa nhằm chuẩn bị cho lần chính thức ra biển.

Sáng 28/3 vừa qua, doanh nhân Nguyễn Quốc Hòa đã chính thức đưa tàu ngầm Trường Sa do ông tự sáng chế ra hồ lớn để thử nghiệm. Sau khoảng hai tiếng thử nghiệm trong hồ ở thành phố Thái Bình, tàu ngầm Trường Sa với màu đỏ đã hoạt động nhịp nhàng trước sự chứng kiến của hàng trăm người.
Tàu ngầm Trường Sa có màu sơn đỏ ấn tượng

Vài ngày sau, ông Hòa đã quyết định sơn lại toàn bộ phần vỏ ngoài của con tàu để chuẩn bị cho chuyến ra biển. Ông Hòa cho biết toàn bộ quá trình sơn tàu diễn ra trong 2 ngày. Gần như toàn bộ con tàu đã được phủ một lớp sơn đen, màu sơn chủ đạo thường được dùng cho các tàu ngầm quân sự trên thế giới.
Tàu ngầm Trường Sa được sơn thêm 3 lớp. Lớp ngoài cùng có màu đen bóng.
Lớp sơn đen khá mịn của tàu có được là nhờ một loại sơn đặc biệt dành cho tàu biển. 
Theo ông Hòa, quá trình sơn và gia công cho toàn bộ con tàu đã tốn một khoản chi phí không nhỏ.
Dòng chữ "Chế tạo tại Thái Bình - Việt Nam" được sơn màu vàng nổi bật ở hai bên mạn tàu.
Phần giá đỡ phía dưới của tàu ngầm được sơn đỏ giống với màu cờ tổ quốc
Tên gọi "Trường Sa 01" cho thấy tham vọng chế tạo thêm nhiều tàu ngầm khác nữa của ông Hòa

Trao đổi với VnReview, ông Nguyễn Quốc Hòa cho biết mọi khâu chuẩn bị để tàu ngầm Trường Sa ra biển đã hoàn tất. Những lần thử nghiệm trước đã cho kết quả rất tốt nên ngoài việc sơn và tân trang lại phần vỏ thì ông chưa có ý định sửa hay thay thế bất cứ bộ phận nào trên con tàu.

"Tuần vừa qua, tôi đã làm việc với đại diện Viện kỹ thuật tàu quân sự (Bộ Quốc phòng). Chỉ chờ Bộ Quốc Phòng cho phép, tàu ngầm Trường Sa sẽ được ra biển", ông Hòa nhấn mạnh.

Tác giả tàu ngầm Trường Sa cũng cho biết khi ra biển thì tàu ngầm sẽ chạy thử trong bán kính 50 km, lớn hơn rất nhiều so với lần thử nghiệm trong hồ lớn tại khu công nghiệp Vĩnh Trà ở TP. Thái Bình.

TIỂU LUẬN NHÃ THUYÊN

LTS:Tiểu luận của Nhã Thuyên về thơ "dơ",thơ "rác".. . thì không đáng nói đến. Nhưng vấn đề rất nghiêm trọng là quan điểm đào tạo sai lầm. Kỳ này nói về luận văn của Nhã Thuyên. Các kỳ tới nói rõ sai lầm có hệ thống ở bộ môn Văn học Hiện đại Việt Nam khoa Ngữ Văn ĐHSP Hà Nội 

 
Thế là gần hai mươi năm qua Thạc sĩ Nguyễn Thị Bình vẫn giữ quan niệm văn học sai lầm mà vẫn trở thành PGS-TS-Nhà giáo ưu tú - Tổ trưởng tổ văn học hiện đại Việt Nam để hướng dẫn nghiên cứu sinh Đỗ Thị Thoan (tức Nhã Thuyên) hoàn thành luận văn Thạc sĩ “VỊ TRÍ CỦA KẺ BÊN LỀ: THỰC HÀNH THƠ CỦA NHÓM MỞ MIỆNG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA” đạt kết quả xuất sắc với điểm 10 tuyệt đối. Đây là một chương hài hước đặc sắc nhất trong lịch sử Trường ĐHSP Hà Nội. 
Lời cảm ơn của tác giả Luận văn (từ đây xin viết tắt LV) nói lên phần nào tinh thần Umour ấy.
Tôi muốn bày tỏ sự tri ân sâu sắc tới Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình, người hướng dẫn luôn sẵn lòng cởi mở đón nhận những ý kiến đa dạng về các hiện tượng đương đại.
Cảm ơn Tiến sĩ Võ Văn Nhơn, Tiến sĩ Đỗ Lai Thúy, những người không ngần ngại chia sẻ tư liệu và trao đổi. Cảm ơn Thạc sĩ Trần Ngọc Hiếu vì sự sâu sắc đa dạng trong các bài viết về thơ ca và lý thuyết chứa đựng nhiều tiềm năng kích thích và gợi mở quý báu... (và nhiều người khác).
Nội dung của Luận văn đãđược đưa vào tiểu luận Những tiếng nói ngầm, có đôi chút khác nhau chỉ là sự trau chuốt, thêm Lời ngỏ và cắt tỉa những chỗ quá khiêu khích trắng trợn mà chúng tôi sẽ phân tích sau.
Vấn đề rất quan trọng ở đây là sự khác nhau giữa Luận văn và tiểu luận. Một tác giả tự do đăng tải trên mạng. Các cư dân mạng có thể tiếp nhận ở những mức độ khác nhau, có thể người ta không đọc, có thể được tán thưởng, có thể bị phản đối một cách quyết liệt, như hồi ký của một vị giáo sư cách đây mấy năm.
Nhưng một Luận văn cao học trong một cơ sở đào tạo của Nhà nước thì có tính pháp quy. Đại học Sư phạm Hà Nội là trường đại học trọng điểm của quốc gia, tính pháp quy của Luận văn càng phải chặt chẽ. Luận văn phải lưu ở thư viện quốc gia, là tài liệu chính thức cho người nghiên cứu, tham khảo. Tác giả Luận văn lại là người giảng dạy, trực tiếp đứng lớp thì học trò phải học theo. Vì thế cần phải vạch rõ tính chất nguy hại của Luận văn này.
Ngay trong tên của Luận văn, thì góc nhìn văn hóa ở đây là góc nhìn nào? Thuộc về một thứ văn hóa nào? Nó vừa mập mờ che mắt người đọc, vừa ngầm chứa một ý tưởng xấu. Thông thường người ta hiểu từ Văn hóa là hay là tốt, là đúng... nhưng đọc vào nội dung mới thấy góc nhìn của Luận văn là góc nhìn phản văn hóa. Hãy xem Lý do chọn đề tài của tác giả Luận văn:
Nếu coi văn hóa là một chỉnh thể, thì cái chỉnh thể này, bất kể không gian hay thời gian, luôn bao gồm cái hiện diện và cái vắng mặt, dòng chính (mainstream) và dòng ngầm (underground). Theo đó, dòng chính thường được coi như là trung tâm, là hệ quy chuẩn cho những định giá trong tiếp nhận, cũng có nghĩa nó mang quyền năng chi phối và tác động, quyền năng hình thành quy phạm, hình thành thiết chế. Tuy nhiên, luôn luôn xảy ra quá trình giải quy phạm và phá hủy thiết chế, nhất là khi thiết chế đó bộc lộ sự xơ cứng và bảo thủ, diễn ra ngay trong dòng chính như một quy luật của vận động. Và không khó hiểu, ở những thời điểm khủng hoảng, những cuộc cách mạng/khởi loạn thường xảy ra. (Luận văn - trang 3) Vâng! Nhưng không phải hầm bà lằng, tạp pí lù đâu!
Và đây nữa, là “văn hóa” khi nhận xét, bình luận các hiện tượng văn học:
Việc Nguyễn Huy Thiệp nhét cứt vào miệng kẻ sĩ Bắc Hà để hạ bệ thần tượng hoàn toàn khác việc Mở Miệng đưa chuyện cứt đái ra nói công khai như những kẻ mua vui nhàn rỗi cho quần chúng bằng thơ tiếu lâm. Nguyễn kết thúc thời kỳ anh hùng bằng việc trộn lẫn hư cấu và lịch sử, nhưng vẫn kỳ vọng vào sự thay đổi và “quyền được nói sự thật”, và cuộc chiến đấu của Nguyễn vẫn là cuộc chiến đấu với một ý thức hệ bao trùm. Các nhà thơ “phản kháng” trong bối cảnh hậu đổi mới như Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng, Phan Bá Thọ, Mở Miệng, hay nhiều nhà thơ khác xuất bản trên Tiền Vệ hay Damau, thể hiện sự phản kháng bằng nhận thức rộng rãi hơn về bối cảnh. Họ văng tục và nói về cứt đái nhưng muốn lật đổ hơn là xây dựng. Họ không thể gây hấn chỉ bằng cách nỗ lực nói sự thật, vì niềm tin vào sự thật cũng không còn. (Luận văn - trang 31)
Và đây có thể xem là mục tiêu “văn hóa” của Luận văn, khi định giá trị của cái ngoại vi, cái khác (other), cái bên lề:
Cái bên lề xuất hiện đòi làm cách mạnh khi cái trung tâm trở nên cỗi già. Quá trình kết tụ sức mạnh thành dòng ngầm của những cái bên lề và “gây hấn” ở những thời điểm cách mạng không phải là một thuộc tính văn chương, mà là một hiện tượng phổ biến và nằm trong bản chất của vận động, do đó, cũng là một hiện tượng vận động có tính quy luật của lịch sử văn học, ở bất kỳ thời gian, không gian, trong bất kỳ thể chế nào, mọi thời đại, mọi quốc gia, lãnh thổ. Nó luôn là biểu hiện của một nỗ lực tìm kiếm ý thức văn hóa mới có tính chất thay thế, làm đối tượng với cái đang trở nên già cỗi, mòn sáo và chuyên chế. (Luận văn - trang 25)


VẤN ĐỀ Ở KHOA VĂN ĐHSP HÀ NỘI 

Một luận văn kích động sự phản kháng và chống đối 
CHU GIANG 

(Xem từ số 256)
Mặc dù Luận văn trưng bày nhiều lý thuyết của nước ngoài làm cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu như khái niệm LỀ (margin) hay SAMIZDAT (tự xuất bản), tựu trung chỉ để khẳng định, đề cao thực hành thơ của nhóm MỞ MIỆNG. Và đây là sự đánh giá của Luận văn về sự giải phóng ngôn ngữ, về “hai thứ taboo vào loại lớn nhất, nguy hiểm nhất trong các xã hội Việt Nam là Nói Tục và Chính Trị thì đều được các nhà thơ MỞ MIỆNG và những người đồng ý hướng xuyên thủng” (Luận văn - trang 66). Và được tác giả hết lời ca ngợi:
Hiếm có bài thơ nào sử dụng những chữ vốn bị cho là cấm kỵ tài tình và hấp dẫn đến thế, thẳng băng ngang hàng, không kêu gọi lật đổ, mà bản thân nó đầy sức mạnh lật đổ. Xin đọc một đoạn:

TÍNH HÁO DANH NHỎ MỌN VỤ LỢI CỦA NGƯỜI VIỆT

TM & CN: Một bài viết hay của tác giả Nguyễn Hoàng Đức. Với tư duy của người nghiên cứu triết học, anh đã ẩn dụ một cách rất khéo léo những thói hư, tật xấu của người Việt qua sự háo danh thiếu liêm sĩ và trí tuệ. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến xứ An-nam mãi không thể nào hòa nhập được với đại đồng văn minh nhân loại.

Trân trọng giới thiệu tới bạn đọc TM & CN.

Việt Nam có hơn 24.000 tiến sĩ, đông bậc nhất thế giới nhưng là nước nghèo nàn đội sổ bậc nhất thế giới, và cũng có đông người làm thơ nhất cỡ ít ra cả triệu nhà thơ nhưng không thấy tác phẩm lớn mà chỉ thấy các mẩu vụn vẫn được gọi là “thơ hắt hơi”, những thứ bé hơn cả chuồng gà chuồng vịt. Tại sao? Bởi vì người Việt chỉ háo danh hão huyền nhắm vào vụ lợi “tham bát bỏ mâm” gắp cho mình, nên đất nước mới nghèo nàn lạc hậu và thi ca chỉ là chiếu rách à ơi mua vui bên chén rượu nhạt hay chén trà trong chốc lát. Hôm nay tôi xin bàn vào việc này.

Số lượng hơn 24.000 tiến sĩ Việt, kết quả thế nào? Nếu mỗi tiến sĩ chỉ cần viết một bài tiểu luận, thì chúng ta sẽ có ngần ấy bài, và in được khoảng 240 cuốn sách dầy dặn với mỗi cuốn có 100 bài. Nhưng than ôi, làm gì có ai thấy hơn hai trăm cuốn sách đó, mà 24 cuốn cũng không?

Chúng ta nghĩ gì khi một tiến sĩ không viết nổi 1 bài tiểu luận? Vậy thì 1 luận án bảo vệ tiến sĩ của người ta dầy hơn một trăm trang A4 lại không hơn một tiểu luận chỉ nghìn chữ thôi sao? Có một vụ án đã vỡ lở tại Việt Nam, một kẻ vừa tốt nghiệp đại học ra trường đã dịch vụ làm luận án cho hơn trăm tiến sĩ bằng cách vào các thư viện sao chép các đoạn tài liệu. Điều đó nói lên cái gì? Đó là những tài liệu vô hồn, chỉ có số liệu mà không có phán đoán, nhưng như vậy cũng đủ cho một bằng tiến sĩ. Ở Việt Nam, tôi được biết trong nhiều khoa người ta chấm lẫn cho nhau để có 100% thạc sĩ, người nào cũng nhận điểm suýt soát tối đa “nắm phải chim” tức là “chín phẩy năm”.

Chính vì tiến sĩ của ta đa số là chép tài liệu, đẩy đít như không cần có ngoại ngữ, hoặc ú ớ mấy từ, không cần biết phán đoán cá nhân, mà như nhân gian nói, chúng ta chỉ là “tiến sĩ giấy”, có thể ăn được, nói được, chém gió rất tài, nhưng lại không làm được. Việc viết được luận án tiến sĩ ư? Đó chỉ là trong khoa, trong trường chấm “nội bộ” lẫn nhau, nhưng việc viết một bài tiểu luận hay một cuốn sách chuyên luận là rất khó, bởi lẽ việc đó phải hiện diện trước công luận, chứ không phải thứ úm ba la chém gió trong nhà. Ngành văn học là dễ thấy nhất, có cả triệu người đã học trình độ đại học, nhưng cả nước không có đủ chục người có khả năng viết phê bình văn học. Còn các ngành khác? So với Nhật Bản hay Hàn Quốc, các chuyên gia tính, số đăng ký bản quyền phát minh ở Việt Nam kém hơn cả nghìn lần. Than ôi, lượng tiến sĩ của mình thì đông gấp năm lần người ta, nhưng bằng phát minh thì chưa được một phần nghìn. Nghĩa là chúng ta chỉ có bằng giấy không thể nào ra quả được.

Ở đời ai cũng khát danh vọng, bởi vì cái đó là biểu hiện của vinh quang cũng như sự tôn trọng. Đó là điều chính đáng! Một viên sỏi ném xuống nước còn sủi bọt lên, làm người mà vô tăm tích như bèo trôi trên sông không để lại dấu vết gì thì cũng thật buồn. Nhưng như người Việt nói “Thế gian chuộng của chuộng công/ Nào ai có chuộng người không bao giờ”. Còn người phương Tây có phương ngôn “Người ta được quí trọng ngang với những gì cống hiến cho mọi người”. Nếu ta không cống hiến hay hy sinh cái gì cho người khác, thì làm sao muốn người ta trọng thị mình? Anh vĩ đại ư? Nhưng anh đã làm gì để thành vĩ đại? Thi hào Goethe nói cụ thể: “Mọi vinh quang phải đi kèm với công lao”. Nằm ngủ gãi háng để rồi vinh quang sẽ rơi xuống như nhện rơi từ trần nhà xuống người mình ư? Trong tự nhiên, cũng có cả qui luật huyền bí, đó là nhện sẽ không bao giờ rơi xuống kẻ vô tích sự, bởi vì “nhện sa sà đón xin đừng vội lo”.

Người phương Tây họ cũng háo danh, nhưng háo danh bằng cách nhảy thác Niagara, nghĩa là đem cả mạng sống mình để đổi lấy sự nổi tiếng còn hơn phải chết buồn trong cuộc đời buồn tẻ không phát xạ bất cứ đốm sáng nào khác thường. Rồi người ta đăng ký các kỷ lục Guinness từ tâng bóng, đến đá cầu hay ăn ớt… Đó chí ít là vinh quang cụ thể mà người ta làm được. Nhưng còn các tiến sĩ ở ta? Họ tung mọi tiền bạc ra chạy cán đích có phải để ẵm chiếc bằng là vinh quang chữ nghĩa? Không, cái bằng đó là thứ để đổi lấy một cấp bậc cụ thể hay mức lương nào đó. Có cả các vị quan đã cho cả người đi học hộ mình mong lĩnh bằng cho việc thăng chức.

Còn việc làm thơ? Có phải người Việt rất yêu thơ không? Không hề! Vì một người yêu âm nhạc hay ca khúc, nghe tiếng nhạc họ liền nhún nhảy hát theo, không cần để ý bài hát đó là của ai sáng tác. Ngược lại người làm thơ xứ ta, yêu thơ đến độ chỉ thích đọc thơ mình, thơ của ai dù hay mấy cũng bị bỏ ngoài tai. Thực ra đó chỉ là người bán hàng, muốn giật loa khỏi tay người khác để quảng cáo cho sản phẩm của mình. Nhưng đây là bi kịch lớn nhất của thơ Việt, sau khi giật được loa, chiếm được sàn diễn trên báo, ngồi ì cả mấy chục năm nhưng không biết quảng cáo sản phẩm của mình có gì.

Làm thơ ở Việt Nam chỉ là cách để người ta háo danh nhanh nhất và lười biếng nhất. Cụ thể, một câu lạc bộ thơ bên phía bắc sông Hồng, sau thời gian đua nhau ra các tập thơ mỏng như tờ rơi, họ liền tiến vào báo văn nghệ của thủ đô, làm vài trang ra mắt chào mừng, liên hoan với nhau mấy can bia to tướng cùng lạc luộc. Điều ấy có vui không? Có! Nhưng nếu chỉ có vậy thì không sao? Đừng này sau khi đăng báo, mấy vị thơ nhà quê lại trách móc, tại sao thơ của chúng tôi không được các nhà phê bình khen như thể thơ đã leo lên báo. Chao ơi, thơ từ bùn đất quê nhà được leo lên báo thủ đô quả là quãng đường của phi công Phạm Tuân bay lên vũ trụ, mà không được bình phẩm sáng láng lại chìm xuồng như bia lạc chui vào dạ dầy rồi lại chui ra ư?

Đấy chúng ta thử nhìn cách sống, cách nghĩ, cách sáng tạo của người Việt. Ở Việt Nam không có một chiếc thuyền thúng nào được đặt tên cả. Còn khi đã đóng một con tầu, thì nó phải được đặt tên rồi mang số hiệu. Muốn làm một con tầu thì sao? Nó phải có ý tưởng lớn đầu tiên như đi dường dài hay vượt biển. Rồi phải được lắp đặt bằng các chi tiết nhỏ nhất bằng kỹ thuật. Một người mới loanh quanh trong sân, nghê nga mấy câu thơ sau lũy tre làng, lại là lúc nông nhàn, sao lại khao khát mình nổi danh là nhà thơ thiên hạ. Làm thơ ít ra phải như Nguyễn Du sôi kinh nấu sử, mang “Thanh Tâm Tài Nhân” của Tầu xa vạn dặm về nhà sao chế mới mong “tầu vượt biển” có danh chứ, đằng này chữ nghĩa chưa hết cấp ba, nông binh còn đượm mùi bùn, sao lại đòi ẵm vương miện vinh quang của chữ nghĩa? Như vậy chẳng là ảo mộng hão là gì?

Tất cả mọi người đều khao khát vinh quang! Tôi cũng không nằm ngoài số đó. Chỉ có điều chúng ta nên nhớ “vinh quang phải ngang bằng công lao”, mấy vần thơ cảm xúc trong ao nhà không cách gì đóng hộ chúng ta một chiến hạm khổng lồ để vượt đại dương đâu?! Nếu chúng ta không sửa soạn đóng tầu với những khung giàn thép khổng lồ, thì đừng có mơ, con thuyền lá tre bé tẹo dù có xinh xắn mấy của ta bỗng chốc trở thành tầu chạy năng lượng hạt nhân lướt sóng đại dương vù vù. Người đời khuyên “biết mình biết ta”, để tránh ảo tưởng về mình, mỗi chúng ta nên biết phản tỉnh để nhận ra khả năng của mình. Một người nông dân làm thơ để vui chơi, không sao cả, nhưng người đó muốn nằm mơ thành thi hào xuất chúng thì không tốt. Càng dở hơn nếu người đó có người chống lưng mong ước hộ mình, câu lạc bộ thơ làng ta sẽ lên báo hết, và sau bữa bia lạc chúng ta sẽ trở thành các nhà thơ được giới phê bình tung hô. Những chiếc thuyền thúng đừng nên nghĩ có một phép lạ nào để nhập nhèm đứng cạnh khoe vóc dáng với tầu sân bay.

Muốn nước nhà hùng mạnh, chúng ta nên có tư duy làm tầu lớn từ khung thép đến sàn tầu. Còn nhanh và tiện như làm thuyền thúng ư, một triệu cái thuyền thúng vẫn chỉ là thứ bé bỏng vô danh mà thôi.

Nguyễn Hoàng Đức 

Nguồn bài viết và hình ảnh: Ở đây.