Thứ Tư, 13 tháng 2, 2019

VỤ LẬP VĂN PHÒNG CHUI ĐỂ ĐÀO TẠO LÁI XE: CẦN KỶ LUẬT NGHIÊM MINH

Cuteo@

Vụ này hay đây. Xem ra mức khiển trách có vẻ nhẹ hều.

Trung tá, thạc sĩ Nguyễn Trường Phi - Phó Giám đốc Trung tâm Dạy nghề - Đào tạo và sát hạch lái xe, thuộc Trường Đại học Phòng cháy chữa, Bộ Công an, đang chờ án kỷ luật do tự ý thành lập Văn phòng tiếp nhận hồ sơ lái xe chui tại Gia Lai.

Văn phòng "chui" đã đổi tên thành Cty TNHH MTV Đào tạo lái xe An Ninh Gia Lai để đánh lừa khách hàng. Ảnh Đình Văn

Nói về vụ việc tiêu cực này, ngày 14/2/2019, thiếu tướng Lê Quang Bốn - Hiệu trưởng Trường Đại học PCCC cho hay: "Chúng tôi đang tổ chức xét kỷ luật bằng hình thức Khiển trách Trung tá Nguyễn Trường Phi vì tự ý ký, đóng dấu thành lập Văn phòng sai quy định, đồng thời đình chỉ các công tác liên quan đến đào tạo lái xe".

Dẫn lời ông Lê Quang Bốn, báo chí cho biết, trường Đại Học PCCC đang phối hợp với công an hai tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai truy tìm người đã "cầm" 2 tỉ đồng tiền của học viên, rồi bỏ trốn.

Trong một bài viết về vụ việc này, phóng viên Đình Văn của báo Lao Động cho hay, có khoảng 500 hồ sơ của học viên được các Văn phòng tiếp nhận hồ sơ lái xe tại hai tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk "nhét" vào các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng... để học. Riêng hồ sơ nộp về Trung tâm Dạy nghề - Đào tạo và sát hạch lái xe (Trường Đại học Phòng cháy chữa, Bộ Công an) là khoảng 170 bộ.

Trước đó, tại Gia Lai, xuất hiện 2 Văn phòng tiếp nhận hồ sơ lái xe tại 13 Lý Thái Tổ, phường Diên Hồng, TP.Pleiku (Gia Lai) và 672/ Quang Trung, thị xã An Khê (Gia Lai).

Trước sự việc trên,Sở Giao thông Vận tải Gia Lai đã có văn bản kiến nghị Trường Đại học PCCC xác minh tính xác thực hai Văn phòng nêu trên.

Phó Giám đốc Trung tâm Dạy nghề - Đào tạo và sát hạch lái xe (Đại học PCCC) là Trung tá Trần Lâm Bằng cho biết: Qua rà soát, Trường Đại học PCCC phát hiện Trung tá, thạc sĩ Nguyễn Trường Phi, hiện là Phó Giám đốc Trung tâm, đã tự ý ký, ban hành Quyết định 188/QĐ-TT3 (ngày 1.9.2018) mở Văn phòng tiếp nhận hồ sơ đào tạo lái xe tại 13 Lý Thái Tổ, phường Diên Hồng (TP.Pleiku, Gia Lai).

Trường Đại học PCCC đã có quyết định thu hồi và hủy bỏ quyết định số 188/QĐ-TT3 do trung tá Nguyễn Trường Phi ký trái luật, qua mặt cấp trên. Đồng thời cho biết, đến thời điểm hiện tại, Trung tâm Dạy nghề - Đào tạo và sát hạch lái xe Trường Đại học PCCC (Bộ Công an) chưa đăng ký website tuyển sinh đào tạo nào trên hệ thống thông tin truyền thông cả nước; cũng như không liên kết với tổ chức, đơn vị nào để đào tạo lái xe ôtô trên địa bàn tỉnh Gia Lai. 

Thiết nghĩ, sai phạm của Trung tá Nguyễn Trường Phi không chỉ đơn thuần là vi phạm quy định của ngành công an, vi phạm các quy định của pháp luật mà còn có dấu hiệu lừa đảo, vi phạm các tiêu chuẩn về đạo đức của người cán bộ công an, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của Trường Dại học PCCC và của ngành công an. Trường Đại học PCCC nên có mức kỷ luật sao cho chuẩn mực, đảm bảo tính giáo dục, răn đe và tính nghiêm minh của pháp luật.

HOÀN THÀNH CHỈ TIÊU TRỒNG MỚI 1 TRIỆU CÂY XANH, HÀ NỘI TIẾP TỤC KẾ HOẠCH PHỦ XANH MÔI TRƯỜNG

Khoai@

Cách đây không lâu, những người thiếu thiện cảm với chế độ, trong đó có cả một số người nhân danh nhà báo, nhân sĩ, nhà hoạt động môi trường và đám phản động khoác áo yêu nước vẫn hàng ngày ra rả trên mạng rằng Hà Nội đang hủy hoại môi trường bằng cách liên tục chặt hạ cây xanh.

Với mục đích tấn công chính quyền, họ không từ bất cứ thủ đoạn nào, từ việc viết bài đánh lận đỏ đen, đánh tráo khái niệm, dùng xảo thuật ngôn từ...để đánh lừa người đọc nhằm kích động người dân phản đối chế độ. Có đến hàng trăm, hàng nghìn bài viết chỉ khai thác khía cạnh "đốn hạ" cây xanh mà lờ đi nỗ lực di dời, trồng mới cây xanh của Hà Nội.

Nhưng sự thật vẫn là sự thật, những nỗ lực bảo vệ môi trường mà trực tiếp là trông cây xanh của Hà Nội đã được ghi nhận.

Tại Hội nghị tổng kết phong trào thi đua năm 2018, phát động năm 2019 diễn ra sáng 10/12/2018, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung thông tin: “Sau 3 năm triển khai, đến nay chúng ta đã hoàn thành mục tiêu trồng 1 triệu cây xanh".

Dẫn nguồn từ thống kê của Kiểm toán trung ương, trong 3 năm (từ năm 2016-2018), Hà Nội chi 256 tỷ đồng cho việc trồng và 187 tỷ đồng cho việc chặt hạ, di dời cây xanh. 

Chủ tịch Chung cho biết: Sau khi hoàn thành chương trình trồng 1 triệu cây xanh, TP Hà Nội đã nâng mục tiêu trồng thêm 600 nghìn cây và hoàn thành vào năm 2020. Ông Chung cũng yêu cầu "các quận huyện cũng phải bổ sung chỉ tiêu này vào kế hoạch”.

Không thỏa mãn với kết quả đã đạt được, năm 2019, Hà Nội đặt mục tiêu phấn đấu trồng mới khoảng 400.000 cây đô thị, cây bóng mát, cây lấy gỗ trên các tuyến đường giao thông đô thị TP.

Riêng đầu Xuân Kỷ Hợi, Hà Nội đặt kế hoạch trồng khoảng 150.000 cây xanh các loại. 

Ngoài việc duy trì và thúc đẩy phong trào Tết trồng cây, Hà Nội cũng quan triệt các yêu cầu bền vững, đa dạng về chủng loại, trong đó duy trì phát triển cây bản địa; bổ sung giống, loài cây nhập nội mới phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng đất đai của Hà Nội; và phải được bảo vệ, chăm sóc đúng kỹ thuật.

Với quyết tâm của chính quyền thành phố, chắc chắn năm 2019, Hà Nội sẽ tiếp tục dẫn đầu cả nước trong việc phủ xanh môi trường.

VÀO SƯ PHẠM CÓ CẦN TIÊU CHÍ CHIỀU CAO?

haanh84@gmail.com/THANH NIÊN

Trong phương án tuyển sinh dự kiến vừa công bố, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM quy định thí sinh dự thi ngành sư phạm cần có chiều cao tối thiểu từ 1,5 m với nữ và 1,55 m với nam. Quy định này ngay lập tức nhận được nhiều ý kiến khác nhau từ dư luận.

Thí sinh dự thi năng khiếu kể chuyện vào Trường ĐH Sư phạm TP.HCM/ẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH

Để tuyển sinh một thế hệ giáo viên mới !

Trao đổi với phóng viên Báo Thanh Niên, PGS-TS Huỳnh Văn Sơn, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, cho biết quy định chiều cao với thí sinh dự tuyển ngành sư phạm chỉ là quy định riêng của trường này và đã được áp dụng từ năm 2008. Trong đó, chiều cao là một chi tiết nằm trong những yêu cầu về sức khỏe của đề án tổng thể với rất nhiều yêu cầu về phẩm chất, năng lực khác. Tiêu chuẩn chiều cao này không áp dụng với sinh viên hệ cử nhân ngoài sư phạm.

Theo ông Sơn, quy định này được nhà trường tiếp tục sử dụng trong năm nay để phục vụ cho việc tuyển sinh một thế hệ giáo viên mới, đủ sức khỏe, đủ khả năng thích nghi và có sức bền nghề nghiệp nhằm đón đầu những đòi hỏi của xã hội, những mong mỏi của phụ huynh về lớp nhà giáo hiện đại, có sức khỏe và có quyết tâm nghề.

Lý giải về việc này, ông Sơn cho biết quy định của trường được căn cứ trên nhiều cơ sở khác nhau. Trong đó, khi xem xét trên bình diện chung, cả xã hội với những đề án có liên quan như: đề án tổng thể phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học giai đoạn 2016 - 2020 cho thấy việc đánh giá sức khỏe trong trường học là rất quan trọng. Việc tham gia thể thao hay quy định có ít nhất 95% trường tiểu học đảm bảo có kỹ năng giáo dục thể chất, tổ chức hoạt động thể thao ngoại khóa cho thấy yêu cầu sức khỏe là cần thiết.

Bên cạnh đó, ở thông tư liên tịch giữa Bộ Y tế và Bộ GD-ĐT, về bảng treo ở lớp học cách nền phòng học từ 0,65 - 0,80 m với trường tiểu học và ở THCS là 0,8 - 1,0 m. Từ đó để nhận thấy chiều cao của thầy cô giáo có ảnh hưởng nhất định từ phương diện yêu cầu nghề. Trong khi Trường ĐH Sư phạm TP.HCM là nơi đào tạo giáo viên (GV) THPT, việc đảm bảo sức khỏe của GV khi đảm trách công tác dạy học cho học sinh THPT là rất cần thiết trong đó có vấn đề về chiều cao.

Cũng theo ông Sơn, quy định này còn căn cứ trên số liệu về chiều cao trung bình của người VN. Những số liệu cập nhật cho thấy chiều cao trung bình của thanh niên VN điều tra từ năm 2009 - 2010 là cận 20 tuổi ở nam đến 164,44 cm và ở nữ lên đến 153,43 cm. “Vì thế chiều cao ở mức 1,5 m với nữ là chấp nhận được”, ông Sơn nói.

“Tuy nhiên, tôi xin khẳng định, với những trường hợp đặc biệt, trường sẽ có sự xem xét cụ thể và có những biện pháp đảm bảo tính nhân văn, tôn trọng. Trường này hiện có nhiều sinh viên khuyết tật với nhiều hạn chế thể lực nhưng vẫn đang học các ngành sư phạm toán, văn, tâm lý học, giáo dục đặc biệt...”, ông Sơn chia sẻ.

GV cần có ngoại hình và tác phong

Tiến sĩ Tô Văn Phương, Phó trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Nha Trang, cho rằng sư phạm là một ngành đặc thù nên việc tuyển sinh vào ngành này cũng có những đặc thù nhất định với các tiêu chí phụ bên cạnh tiêu chí điểm đầu vào.

Theo ông Phương, việc các trường sư phạm xét chiều cao ngay từ đầu cũng giống như các trường công an, quân đội… nên được ủng hộ. Ông Phương phân tích: “Khi tiêu chí chiều cao ràng buộc ngay từ ban đầu thì sau này ra trường xin việc, sinh viên sẽ không bị sốc hoặc lãng phí cơ hội sau 4 năm học ĐH bởi những quy định rất thực tế từ nhiều cơ quan, trường học khi tuyển dụng giảng viên, GV có tiêu chí chiều cao. Ví dụ như Trường ĐH Nha Trang thông báo tuyển dụng giảng viên, có tiêu chí phụ là chiều cao (nữ là 1,55 m và nam là 1,60 m; không nói ngọng, nói lắp, dị tật khác...)”.

Ông Phương nói thêm, bên cạnh các yêu cầu rất cơ bản như kiến thức và nghiệp vụ sư phạm thì GV cũng giống như ca sĩ trên sân khấu, cần có ngoại hình và tác phong. “Đối với GV có ngoại hình ưa nhìn sẽ giúp tiết học có không khí hơn. Sinh viên có ngoại hình ưa nhìn có rất nhiều lợi thế khi đi xin việc”, ông Phương nói...

Nhiều yếu tố khác quan trọng hơn chiều cao

Trong khi đó, nhiều trường ĐH có đào tạo ngành sư phạm cho rằng, người học sư phạm cần có nhiều tiêu chí khác còn quan trọng hơn so với chiều cao. Hiện nhiều trường có đào tạo ngành sư phạm không áp dụng quy định ràng buộc về chiều cao với người học.

Theo tiến sĩ Lê Chi Lan, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sài Gòn, chiều cao không là tiêu chí để xét tuyển thí sinh vào ngành sư phạm của trường. “Chiều cao không ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy, cũng không làm cho người học tiếp thu bài kém đi. Nếu nói về các tiêu chí bên ngoài, cái quan trọng phải là phát âm chuẩn xác để truyền đạt kiến thức tốt tới người học. Trong đó có quy định không nói ngọng, nói lắp”, tiến sĩ Lan nêu lý do.

Trường ĐH Cần Thơ hiện cũng đang đào tạo 13 ngành sư phạm, trong đó chỉ ngành giáo dục thể chất có yêu cầu về thể trạng với người dự tuyển. Thạc sĩ Nguyễn Hứa Duy Khang, Phó trưởng phòng Đào tạo, cho rằng chiều cao không phải tiêu chí cần thiết để xét tuyển người học ngành sư phạm vì nó không ảnh hưởng gì đến việc dạy học.

Ông Khang cho hay: “Một GV giỏi không nhất thiết phải cao. Quan trọng nhất với người thầy là chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, có cái tâm và nhiệt huyết với nghề”.

Trường được quyền đặt ra yêu cầu sơ tuyển nhưng phải đảm bảo quyền bình đẳng

Chiều 13.2, bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ GD-ĐT, cho biết trong điều kiện tự chủ, trường có quyền đặt ra yêu cầu sơ tuyển, và có trách nhiệm giải trình để tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Bà Phụng cho rằng trong điều kiện tự chủ, quy chế tuyển sinh cho phép các trường được yêu cầu sơ tuyển và thí sinh phải đạt yêu cầu sơ tuyển của trường. Các quy định của trường do trường xác định và chịu trách nhiệm giải trình, để xây dựng chính sách chất lượng, nâng cao khả năng có việc làm của sinh viên và xây dựng “thương hiệu” của trường.

Bà Phụng nói: “Chúng tôi khuyến khích trường quy định các yêu cầu, điều kiện riêng để hướng tới việc lựa chọn thí sinh giỏi, tâm huyết với nghề, có khả năng sư phạm... để nâng cao chất lượng đội ngũ thầy cô giáo. Chúng tôi cũng đã yêu cầu trường rà soát kỹ dự thảo Đề án tuyển sinh và xác định các nội dung thực sự cần thiết, có cơ sở chắc chắn... để khi ban hành đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội cho các thí sinh, không thể hiện chính sách phân biệt đối xử; yêu cầu trường nên giải trình rõ để tạo sự đồng thuận trong xã hội”.

Quý Hiên

Vnexpress: TRUNG QUỐC DỰ LIỆU ĐÚNG VỀ LIÊN XÔ KHI TẤN CÔNG VIỆT NAM NĂM 1979

Thực tình tôi chưa đồng ý nhiều nội dung trong bài, tuy nhiên cũng xin đăng lại từ Vnexpress để anh chị em tham khảo:

'Trung Quốc dự liệu đúng về Liên Xô khi tấn công Việt Nam năm 1979'

Lãnh đạo Bắc Kinh phán đoán Liên Xô không mạo hiểm huy động lực lượng lớn đánh trả Trung Quốc, dù Việt - Xô quan hệ khăng khít.

Cách đây 40 năm (17/2/1979), Trung Quốc nổ súng tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, gây nhiều đau thương cho người dân. VnExpress có cuộc trao đổi với Thiếu tướng, Giáo sư Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược quốc phòng về những mưu toan của Bắc Kinh khi gây chiến.

- Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc rạn nứt từ thời điểm nào, thưa ông? 

- Để hiểu rõ hơn, cần đặt mối quan hệ Việt - Trung trong mối quan hệ cũng như tính toán chiến lược giữa các nước lớn. Cụ thể là giữa Việt Nam - Trung Quốc; Liên Xô - Trung Quốc và Liên Xô - Mỹ. 

Giai đoạn 1950-1964 được coi là thời kỳ "trăng mật" của quan hệ Việt - Trung. Hai nước là láng giềng gần gũi, hữu nghị truyền thống, chung ý thức hệ, chung nhu cầu đảm bảo an ninh quốc gia. Vì thế Trung Quốc là nước viện trợ hàng đầu cho Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Việt Nam cũng luôn ủng hộ đường lối đối ngoại của Trung Quốc, tuy không ký kết bất kỳ hiệp định đồng minh chính thức nào. 

Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân. Ảnh: Gia Chính

Dù vậy, Bắc Kinh luôn giữ tư tưởng bề trên. Luôn nói "không gây sức ép về chính trị, kinh tế thông qua viện trợ", nhưng Trung Quốc lại muốn Việt Nam thừa nhận vai trò lãnh đạo của nước này với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và thế giới. 

Từ giữa thập niên 1960, Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc công khai mâu thuẫn, đối đầu toàn diện. Để tránh Việt Nam đứng về phía Trung Quốc, Liên Xô tìm cách lôi kéo Việt Nam. 

Trung Quốc muốn Việt Nam chỉ đánh du kích có giới hạn chống Mỹ, để họ dễ bề điều khiển, phục vụ ý đồ bắt tay với Mỹ. Trong khi Việt Nam muốn thống nhất đất nước. Việt Nam cũng muốn trực tiếp đàm phán với Mỹ, không qua trung gian và đã đàm phán từ năm 1968. Còn Trung Quốc thì phản đối, muốn Việt Nam tiếp tục chiến tranh đến khi Mỹ chấp nhận thua cuộc mới đàm phán.

Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và Trung - Mỹ ra thông cáo chung. Có ý kiến coi hành động này là sự phản bội của Trung Quốc. Cùng với đó, Trung Quốc cắt giảm viện trợ cho Việt Nam nhằm tìm kiếm cơ hội đàm phán với Mỹ. 

Năm 1974, Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam) trong sự làm ngơ của Mỹ. Một năm sau, Việt Nam và Liên Xô ra Tuyên bố Việt - Xô, xác định quan hệ toàn diện giữa hai Đảng. Tháng 11/1978, Việt Nam và Liên Xô ký Hiệp ước Hữu nghị, hợp tác. Cùng năm đó, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) và được Liên Xô gọi là "tiền đồn đáng tin cậy của các nước XHCN ở Đông Nam Á".

Cuối năm 1978, Liên Xô ký thỏa thuận với Việt Nam về việc xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật tại Cam Ranh trong 25 năm. Theo đó, Cam Ranh trở thành nơi tiếp nhận tàu chiến, tàu ngầm, tàu hộ tống, máy bay trinh sát, vận tải và máy bay mang tên lửa thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô. Việt - Xô gần gũi và thân thiết bao nhiêu, thì lãnh đạo Trung Nam Hải lúc ấy tức tối bấy nhiêu. 

Sau năm 1975, Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Pol Pot ở Campuchia, đây cũng là khoảng thời gian đội quân này mạnh tay tàn sát dân lành Việt Nam dọc biên giới Tây Nam, đẩy mâu thuẫn hai nước thêm gay gắt. 

Khi Việt Nam đưa quân phản kích Pol Pot, giúp nhân dân Chùa Tháp thoát khỏi nạn diệt chủng thì quan hệ Việt - Trung lao dốc.

- Tam giác quan hệ Xô - Trung - Mỹ ảnh hưởng ra sao đến việc Bắc Kinh quyết định tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam?

- Đầu thập niên 1970, lãnh đạo Trung Quốc theo đuổi chiến lược toàn cầu chống Liên Xô, dựa trên cơ sở hướng tới hợp tác với Mỹ. Tuy nhiên thời điểm này Washington không hưởng ứng. Trung Quốc tin rằng lý do là Mỹ đang quan tâm hơn đến chính sách hoà dịu với Liên Xô.

Khi Trung Quốc lập liên minh chống Liên Xô, Việt Nam phản đối. Trung Quốc giảm mạnh viện trợ và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ. Một trong những điều kiện để Trung Quốc nối lại viện trợ là Việt Nam phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô. Trước việc Việt Nam quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô, Trung Quốc gọi Việt Nam là "tiểu bá", còn Liên Xô là "đại bá".

Đặc biệt sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (ngày 27/1/1973), quan hệ Trung - Xô - Việt phức tạp hơn, lợi ích và xung đột về kinh tế, chính trị đan xen, rạn nứt Việt - Trung ngày càng rõ nét. 

Ngày 1/11/1977, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc gọi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất và coi Mỹ là đồng minh. Đầu tháng 4/1978, Liên Xô tuyên bố sẽ triển khai trên tuyến biên giới các hệ thống vũ khí mới. Mặt khác, Liên Xô cố gắng kéo dài hiệp ước hữu nghị, hợp tác Xô - Trung ký năm 1950 nhưng Trung Quốc tuyên bố chấm dứt sớm một năm. 

Đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố khả năng một cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên Xô và tập trung 1,5 triệu quân dọc biên giới hai nước. Ngược lại, Liên Xô triển khai hơn 40 sư đoàn, thường xuyên tập trận bắn đạn thật. 

Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Trung Quốc Đặng Tiểu Bình (trái) và Tổng thống Jimmy Carter tại Nhà Trắng năm 1979. Ảnh: AFP

Trung Quốc tin rằng Liên Xô và Việt Nam đang phối hợp để đe doạ nước này, nhất là Việt Nam cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh. Giới lãnh đạo Bắc Kinh cũng khó chịu vì nỗ lực của Việt Nam trong việc thiết lập quan hệ đặc biệt với Lào và hợp tác toàn diện với Campuchia. Thậm chí, Bắc Kinh cho rằng Liên Xô hậu thuẫn Việt Nam đưa quân vào đánh đuổi Pol Pot, giải phóng Campuchia. Vậy nên dưới góc nhìn của Trung Quốc, Việt Nam là mối đe doạ quân sự nghiêm trọng, cần thiết phải phát động cuộc chiến tranh "trừng phạt". 

- Cuộc xâm lược dưới danh nghĩa "trừng phạt" đó được lên kế hoạch như thế nào?

- Khi bàn kế hoạch tấn công Việt Nam, Trung Quốc đã tính toán kỹ các khả năng Liên Xô có thể đáp trả. Họ nhận định Liên Xô sẽ không mạo hiểm huy động lực lượng lớn để tấn công Trung Quốc song có thể xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số lưu vong tấn công các vùng xa xôi như Nội Mông, Tân Cương hoặc gây đụng độ nhỏ kích động căng thẳng ở biên giới. 

Các lãnh đạo Trung Quốc phán đoán cuộc tấn công Việt Nam chớp nhoáng, có giới hạn sẽ không đủ để kích thích Liên Xô can thiệp trực tiếp hay quốc tế phản đối. Tuy vậy, Bắc Kinh vẫn di tản dân gần đường biên và lệnh các đơn vị quân đội ở biên giới với Liên Xô sẵn sàng chiến đấu.

Việc tấn công Việt Nam còn để Bắc Kinh thăm dò khả năng giúp đỡ của Liên Xô và khả năng phòng thủ của Việt Nam khi là thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Đến nay nhìn lại, cần thừa nhận rằng Trung Quốc đã dự liệu đúng phản ứng của Liên Xô.

Đối với Mỹ, thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam là một chấn thương nặng nề mà họ đang ôm trong lòng. Đồng thời, Mỹ muốn tìm kiếm mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để tạo thế cân bằng trước Liên Xô. 

Trung Quốc nhận thấy điều đó nên hy vọng bình thường hoá quan hệ với Mỹ sẽ cải thiện vị trí chiến lược của nước này, tạo điều kiện thuận lợi cho cải cách kinh tế. Xa hơn, đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ thuyết phục Mỹ rằng hai nước có lợi ích chung và sẵn sàng hợp tác chống Liên Xô.

Vì vậy, Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam ngay sau chuyến công du Mỹ của Đặng Tiểu Bình. 

- Còn vấn đề Hoa kiều thì sao thưa ông?

- Tháng 4/1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, ít nhiều liên quan tới người Hoa là thương nhân, nhà sản xuất, tiểu thủ công nghiệp... Đây là công việc đối nội của Việt Nam, nhưng Trung Quốc coi là sự thách thức với chính sách bảo vệ Hoa kiều của Bắc Kinh. Phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người Hoa ở Việt Nam nổi lên. Trung Quốc loan tin trong cộng đồng người Việt gốc Hoa về cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi giữa hai nước, khiến cộng đồng người Hoa hoảng hốt.

Năm 1978, người Hoa ở Việt Nam ồ ạt kéo về Trung Quốc. Đến tháng 2/1979, đã có khoảng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam bằng đường biển hoặc đường bộ qua cửa khẩu Hữu Nghị. 

Trung Quốc lập các trạm đón tiếp dọc biên giới và đưa tàu sang đón người Hoa về. Ngày 12/7/1978, Trung Quốc đóng cửa biên giới với Việt Nam, làm cho hàng vạn người Hoa muốn về Trung Quốc bị kẹt tại biên giới.

Đặng Tiểu Bình lấy cớ cho rằng Hà Nội "vong ơn, bội nghĩa" tạo thêm sức ép cho quyết định tấn công Việt Nam.

- Cuộc phản công Pol Pot của Việt Nam ở biên giới Tây Nam ảnh hưởng ra sao đến kế hoạch của Bắc Kinh?

- Theo tài liệu của Trung Quốc, tháng 9/1978, Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã họp bàn về vấn đề xung đột biên giới với Việt Nam. Lúc đầu, Bắc Kinh dự định tiến hành chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một trung đoàn bộ đội địa phương huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng của Việt Nam nằm sát đường biên giới với tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Tuy nhiên, sau khi có tin Việt Nam sắp phản công tự vệ ở biên giới Tây Nam và tiến công Pol Pot ở Campuchia, thì đa số giới lãnh đạo Bắc Kinh đặt quyết tâm, bất kỳ hành động quân sự nào cũng phải gây ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình Đông Nam Á. Họ chủ trương tiến công các đơn vị quân chính quy của Việt Nam trên địa hình rộng lớn. 

Riêng Đặng Tiểu Bình nhìn thấy cả thách thức lẫn cơ hội trong mối quan hệ khó khăn với Việt Nam và cho rằng cách giải quyết tốt nhất là hành động quân sự. Tháng 1/1978, trong chuyến thăm chính thức Thái Lan, Malaysia, Singapore nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn, Đặng tuyên bố sẽ tiến công Việt Nam nếu nước này tiến vào Campuchia. Trong chuyến thăm này, Đặng tuyên bố với báo giới "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học". Hôm sau, báo chí Trung Quốc rút gọn thành "phải dạy cho Việt Nam bài học".

Ngày 7/12/1978, Hội nghị Quân uỷ Trung ương Trung Quốc họp và quyết định phát động "Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam". "Mệnh lệnh triển khai chiến lược" được ban hành một tháng sau đó, nêu rõ mục đích cuộc chiến là "chi viện cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Campuchia chống Việt Nam xâm lược".

- Bắc Kinh đã tính toán như thế nào khi huy động 600.000 quân trong cuộc tấn công xâm lược này thưa ông?

- Lúc đầu Bắc Kinh dự tính sử dụng 6 quân đoàn chủ lực đánh 3-5 ngày vào một số huyện biên giới, tiêu diệt một đến hai sư đoàn Việt Nam. Ngày 31/12/1978, Quân ủy Trung Quốc lại họp hội nghị tác chiến, quyết định mở rộng quy mô chiến tranh, tăng thêm 3 quân đoàn, đổi mục tiêu tấn công huyện lỵ thành các tỉnh lỵ biên giới; thời gian kéo dài lên 15-20 ngày, nhằm tiêu diệt 3 đến 5 sư đoàn Việt Nam. 

Sự chuẩn bị của Bắc Kinh diễn ra khá lâu trước khi quân đội Việt Nam vượt sông Mê Kông đã chứng minh rõ ràng việc Trung Quốc rêu rao "trả đũa" Việt Nam tiến quân vào Campuchia chỉ là cái cớ. Từ lâu, Trung Quốc vẫn giữ tư tưởng bá quyền nước lớn, ngấm ngầm tìm cách đánh Việt Nam. 

Trung Quốc coi cuộc chiến chống Việt Nam là phép thử với quan hệ Xô - Việt và lôi kéo Mỹ cùng chống lại Liên Xô. Đó mới là lý do sâu xa của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc từ tháng 2/1979.

- Việt Nam đã ứng phó ra sao trước âm mưu và hành động của Bắc Kinh?

- Đối phó lại việc Trung Quốc tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại biên giới, Việt Nam tăng cường chuẩn bị các vị trí phòng ngự, sẵn sàng cho cuộc chiến. 

Lúc đó ở ta cũng có ý kiến tự hào vì được trang bị vũ khí của Liên Xô và của Mỹ thu hồi được, hơn hẳn trang bị của quân đội Trung Quốc. Tuyên bố của Đặng Tiểu Bình chỉ một tuần trước khi nổ súng, rằng chiến dịch quân sự này sẽ "giới hạn về không gian và thời gian" khiến có người tin tưởng khả năng cầm chân quân Trung Quốc ở biên giới chỉ bằng dân quân và bộ đội địa phương. 

Chúng ta đã huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân quân các tỉnh biên giới. Ngày 1/1/1979, các lực lượng vũ trang biên giới được lệnh chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Ngày 15/2/1979, ngoại trừ các xã biên giới và một vài đơn vị, các lực lượng trên tuyến một được lệnh hạ cấp xuống trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Một số đơn vị cho một phần bộ đội về trạng thái sinh hoạt bình thường, điều chỉnh lại đội hình.

Ngày 12/2/1979, Quân uỷ Trung ương Trung Quốc ra mệnh lệnh tấn công Việt Nam vào sáng 17/2.

Sáng sớm hôm đó, Trung Quốc huy động 29 sư đoàn bộ binh thuộc 9 quân đoàn chủ lực ồ ạt tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam. Cùng ngày, Nhân dân Nhật báo đăng bài "Không thể nhẫn chịu, thật không thể nhẫn chịu - báo cáo từ biên giới Trung-Việt" như cách công bố với thế giới Bắc Kinh đã tấn công Việt Nam. 

Trung Quốc còn thâm độc khi lựa chọn tấn công vào ngày Thứ Bảy. Khi đó, các phương tiện truyền thông còn khá lạc hậu, nên phải đến đầu tuần sau thông tin chi tiết về cuộc chiến cũng như phản ứng của Việt Nam mới được thế giới biết đến rộng rãi. 

Viết Tuân

NỢ CÔNG QUỐC GIA VƯỢT NGƯỠNG 22.000 TỈ, NƯỚC MỸ ĐỐI MẶT VỚI HIỂM HỌA GÌ?

Nợ quốc gia lần đầu vượt ngưỡng 22.000 tỉ USD, nước Mỹ đối mặt hiểm họa gì?

Nợ quốc gia của Mỹ đã lần đầu tiên trong lịch sử vượt ngưỡng 22.000 tỉ USD sau khi vượt ngưỡng 21.000 tỉ USD chưa đầy một năm trước. 

Theo số liệu mới được Bộ Tài chính Mỹ công bố hôm qua 12/2, nợ quốc gia nước này lần đầu lên mức kỉ lục 22.013 tỉ USD.

Tổ chức theo dõi ngân sách Peterson Foundations cho biết nợ quốc gia của Mỹ tăng thêm 1.000 tỉ USD trong 11 tháng qua và gọi đây là “dấu hiệu mới nhất cho thấy tình hình tài khóa của chúng ta đang không bền vững và có chiều hướng xấu đi nhanh chóng”.

Nợ quốc gia của Mỹ liên tục tăng cao trong nhiều năm. Nguồn: Bộ Tài chính Mỹ, Bloomberg.

Theo Judd Gregg và Edward Rendell, đồng chủ tịch của tổ chức theo dõi nợ Campaign to Fix the Debt: “Dấu mốc này là một thông tin buồn về khối nợ lớn không tưởng mà các nhà lãnh đạo đã tích tụ và để lại cho thế hệ mai sau”.

Thâm hụt ngân sách tăng nhanh trong thời gian ông Donald Trump làm Tổng thống, chủ yếu do chính sách cắt giảm thuế của Đảng Cộng hòa, chính sách tăng chi tiêu công của cả hai đảng, đà tăng của các chương trình phúc lợi có từ trước như bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội.

Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO) dự báo thâm hụt ngân sách nước này sẽ vượt 1.000 tỉ USD vào năm 2020 nếu tình trạng thu chi hiện nay tiếp diễn. Để có tiền bù đắp con số thâm hụt ngân sách khổng lồ, nước Mỹ đã phải vay nợ rất lớn.

Tính đến tháng 10/2018, Trung Quốc là chủ nước ngoài nợ lớn nhất của Mỹ với số tiền cho vay khoảng 1.140 tỉ USD. Ngay sau Trung Quốc là Nhật Bản với 1.023 tỉ USD. Các vị trí tiếp theo thuộc về Brazil, Ireland và Vương quốc Anh.

Các tổ chức nghiên cứu về ngân sách cảnh báo nợ quốc gia cao có thể kìm hãm tăng trưởng kinh tế

Ông Michael A. Peterson, CEO của Peterson Foundation cho rằng: “Khối nợ quốc gia ngày càng lớn là rất đáng lo ngại vì nó đe dọa tương lai kinh tế của mỗi người dân Mỹ”.

Ông nói thêm “Chúng ta cứ vay hàng nghìn, hàng nghìn tỉ USD và chi phí lãi vay sẽ đè nặng lên nền kinh tế, khiến chúng ta khó tìm được nguồn vốn để đầu tư các dự án quan trọng cho tương lai. Hiện nay chúng ta đang trả trung bình khoảng 1 tỉ USD tiền lãi vay mỗi ngày và trong cả thập kỉ sắp tới, chúng ta sẽ phải trả con số khổng lồ 7.000 tỉ USD tiền lãi”.

Văn phòng Ngân sách Quốc hội cũng ước tính chi phí trả nợ của Mỹ sẽ vượt chi tiêu cho quốc phòng vào năm 2025.

Nguồn: Peterson Foundation. Việt hóa: Kiên Dương.

22.000 tỉ USD lớn cỡ nào?

Theo thông tin từ trang Usdebtclock.org, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ hiện ở mức gần 21.000 tỉ USD. Như vậy, tổng nợ quốc gia của Mỹ đã vượt GDP của nước này. Tuy nhiên, nợ công của Mỹ hiện mới tương đương 69,7% GDP

Con số 22.000 tỉ USD còn tương đương với GDP của ba nền kinh tế lớn là Trung Quốc, Nhật Bản và Đức cộng lại.

Nợ quốc gia, GDP và tỉ lệ nợ công/GDP của một số nền kinh tế lớn trên thế giới. Nguồn: usdebtclock.org.

Con số 22.000 tỉ USD cao gấp 1,8 lần tổng số tiền gửi trong tất cả ngân hàng tại Mỹ.

Trong số 22.000 tỉ USD này, 16.100 tỉ USD được vay từ bên ngoài, cụ thể là các nhà đầu tư Mỹ (chiếm 60%) và nhà đầu tư nước ngoài (40%); 5.900 tỉ USD là do các cơ quan chính phủ vay lẫn nhau.

Nếu hộ gia đình Mỹ góp 1.000 USD mỗi tháng để trả nợ quốc gia thì cũng phải mất gần 11 năm mới trả hết.

Con số nợ quốc gia này tương đương 126.000 USD/hộ gia đình, hay 49.000 USD/người.

Theo Kinh tế & Tiêu dùng

40 NĂM CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM: CUỘC CHIẾN TRANH BẮT BUỘC

40 năm chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam: Cuộc chiến tranh bắt buộc

Lưu Nhi Dũ

Tiểu đoàn 2 - Lữ đoàn Xe tăng và Sư đoàn 7 - Quân đoàn 4 tấn công giải phóng Phnom Penh Ảnh: TƯ LIỆU QUÂN ĐOÀN 4

Trước khi tập trung 10 sư đoàn tấn công toàn tuyến biên giới Tây Nam ngày 23-12-1978, tập đoàn phản động Pol Pot - Ieng Xari đã thực hiện rải rác các vụ sát hại người Việt, bộ đội Việt Nam và chống phá ta từ năm 1972

Đối với người trong cuộc, nhất là người hoạt động cách mạng ở miền Tây Nam Bộ trước năm 1975, thông tin trên không mới nhưng với công luận thì bất ngờ vì cứ ngỡ Pol Pot - Ieng Xari chống phá Việt Nam sau thời điểm đó.

Thế lực bên ngoài đằng sau Pol Pot

Trong tham luận của mình tại Hội thảo khoa học "40 năm ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng (7.1.1979-7.1.2019)" tổ chức ở An Giang mới đây, Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, khẳng định thực chất Pol Pot đã tiến hành các hoạt động chống phá Việt Nam từ năm 1972.

"Tôi vào Quân khu 9 từ năm 1963, theo dõi kỹ nên biết tình hình này. Không phải nghiễm nhiên Pol Pot chống chúng ta mà phải có một thế lực bên ngoài đứng đằng sau mới có đủ sức" - Tướng Trà phát biểu.

Các nhà nghiên cứu chỉ rõ rằng nếu không có thế lực đó, làm sao Pol Pot - Ieng Xari có thể trang bị đầy đủ vũ khí, đạn dược cho 23 sư đoàn tinh nhuệ và nhiều đơn vị địa phương như vậy.

Đại tướng Phạm Văn Trà cho biết năm 1972, nhiều đơn vị của Quân khu 9 sang Campuchia đã bị Pol Pot giết hại. Một bệnh viện của Sư đoàn 1 - hoạt động chủ yếu ở An Giang, Hà Tiên - tại Tà Keo cũng bị Pol Pot cho phá hủy.

Tham luận của Thiếu tướng, PGS-TS Vũ Quang Đạo, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, cho biết chi tiết: Từ năm 1970-1975, Pol Pot đã tiến hành một số vụ tấn công, bắt cóc bộ đội Việt Nam hoạt động trên chiến trường Campuchia.

Cụ thể, "chỉ tính 6 tháng đầu năm 1972, riêng Quân khu 203 (Quân khu Đông Nam của Campuchia) đã xảy ra 26 vụ giết bộ đội Việt Nam, 17 vụ cướp vũ khí, 385 vụ bắt cóc, 413 vụ tịch thu hàng hóa. Sáu tháng đầu năm 1973, quân Pol Pot gây ra 102 vụ, giết và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực, vũ khí".

Chiến trường ác liệt

Giới lãnh đạo quân sự Việt Nam không bất ngờ trước tình hình đó. Ngay sau ngày 30-4-1975, Pol Pot đã tập trung chống phá Việt Nam có hệ thống. Ngày 3-5-1975, địch xua quân chiếm đảo Phú Quốc; ngày 10-5-1975 chiếm đảo Thổ Chu, Hòn Ông, Hòn Bà.

Đến cuối năm 1976, các cuộc tấn công của quân Pol Pot vào lãnh thổ nước ta ngày càng tăng. Chỉ tính từ ngày 30-4-1975 đến tháng 6-1977, quân Pol Pot đã xâm phạm lãnh thổ Việt Nam hơn 2.000 lần từ Hà Tiên đến Tây Ninh, sau đó là dọc biên giới với các tỉnh Tây Nguyên. Thậm chí, Pol Pot còn tổ chức hỗ trợ Fulro để chống phá ta từ bên trong.

Tính từ tháng 5-1975 đến ngày 23-12-1978, quân Pol Pot đã giết hại hơn 5.230 dân thường Việt Nam vô tội, bắt và đưa đi thủ tiêu hơn 20.000 người.

Chủ trương của quân Pol Pot là "chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15 đến 20 năm; thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 60 triệu người Việt Nam".

Thực tế, chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã bắt đầu từ đêm 30-4-1977, khi mà tập đoàn Pol Pot - Ieng Xari bất ngờ mở đợt tấn công đồng loạt 13 đồn biên phòng, 14 xã, thị trấn dọc biên giới của tỉnh An Giang.

Ngày 23-12-1978, Pol Pot tập trung 10 sư đoàn tấn công toàn tuyến biên giới Tây Nam. Đây cũng là ngày mở đầu cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc ta.

"Một cuộc chiến tranh bắt buộc" bắt đầu, như đánh giá của Đại tá Nguyễn Văn Hồng - nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 309, nguyên Phó Tư lệnh Quân đoàn 4 - trong một tác phẩm nghiên cứu cùng tên.

Việt Nam thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình bằng một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc được ghi vào lịch sử dân tộc, cũng là bảo vệ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol Pot - Ieng Xari. Đến 12 giờ ngày 7-1-1979, những người lính Sư đoàn 7 - Quân đoàn 4 đã làm chủ hoàn toàn Phnom Penh - Campuchia.

Thực tế, người viết bài này, là bộ đội thuộc Trung đoàn 812 - Sư đoàn 309, lúc đó vẫn đang trên đường tiến hành giải phóng thị xã Koh Nhek, tỉnh Mondonkiri - hướng Đông Bắc Campuchia.

Ngoài ra, 2 sư đoàn của Quân đoàn 2 tấn công hướng An Giang vẫn đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận Phnom Penh lẫn giải phóng các quân cảng dọc biển Tây Campuchia, khi mà Lữ đoàn 126 Hải quân đánh bộ của ta bị bao vây trong thế rất nguy kịch, bị địch tái chiếm các quân cảng.

Nhiều trận đánh cực kỳ ác liệt vẫn diễn ra khắp các chiến trường, nhất là hướng Battambang, Siem Reap - các địa phương giáp biên giới với Thái Lan, trở thành những cái túi đựng tàn quân Pol Pot.

Ngày 17-1-1979, Campuchia được giải phóng hoàn toàn. Chiến dịch giải phóng Campuchia, đánh tan tập đoàn phản động, diệt chủng Pol Pot - Ieng Xari kết thúc.

Hơn 2,7 triệu người Campuchia - số liệu của Hội đồng Mặt trận Đoàn kết Xây dựng và Bảo vệ tổ quốc Campuchia - đã chết dưới bàn tay quân Pol Pot và đất nước Campuchia đã tan hoang sau 4 năm cai trị tàn bạo của tập đoàn này.

Thế nhưng, cuộc chiến tranh chính nghĩa của bộ đội ta, của nhân dân Campuchia vẫn chưa thể kết thúc mà phải kéo dài đến năm 1989.

Cuộc chiến tranh tổng lực, hiện đại

Việt Nam bước vào cuộc chiến tranh chính nghĩa với lực lượng bao gồm một phần Quân đoàn 2, 3 và 4, nhiều lữ đoàn thiết giáp, pháo binh, công binh, đặc công, cao xạ..., nhiều sư đoàn, trung đoàn địa phương, không quân và hải quân cùng Quân đoàn 1 của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia.

Đó là một cuộc chiến tranh hiện đại, hợp đồng tác chiến các binh chủng hiệu quả. Ít nhất hai cầu không vận đã được hình thành, đưa Quân đoàn 2 từ Bình Trị Thiên vào An Giang, đưa Sư đoàn 309 từ Cù Hanh (Pleiku) vào TP HCM - Battambang.

Về phía Pol Pot, quân số lúc cao điểm lên đến 23 sư đoàn bộ binh cùng các binh chủng mạnh, lực lượng địa phương với tổng cộng 120.000 người và nhiều loại vũ khí hiện đại.

Nếu tính từ năm 1975, khi Pol Pot tấn công đảo Phú Quốc, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc ta kéo dài 14 năm.

theo Người lao động

Xe tăng Trung Quốc: "TYPE GÌ THÌ TYPE, K GÌ THI K" - ĐỘNG ĐẾN VIỆT NAM CHỈ CÓ MỘT KẾT CỤC LÀ TAN XÁC

Xe tăng Trung Quốc: "Type gì thì Type, K gì thì K" - Động đến Việt Nam chỉ có một kết cục là tan xác

Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt

Xe tăng Trung Quốc bị bắn cháy ở Cao Bằng tháng 2-1979.

Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 1979, phía Trung Quốc đã huy động tới 6 trung đoàn xe tăng thuộc các quân đoàn, quân khu Quảng Tây và Côn Minh với số lượng lên tới 550 chiếc.

Tuy nhiên, về chủng loại thì chủ yếu có 2 loại - đó là xe tăng Type 62 và xe thiết giáp chở quân K63.

Xe tăng Type 62

Xe tăng hạng nhẹ kiểu 62 (Type 62) là loại xe tăng do hãng Norinco của Trung Quốc sản xuất. Đây là một phiên bản thu nhỏ của xe tăng T-59 (1 bản sao của xe tăng T-54) nên hình dạng của nó rất giống T-54A nhưng nhỏ hơn, giáp mỏng hơn, pháo nhỏ hơn. Tên công nghiệp của nó là WZ132. Ở Việt Nam, nó được gọi là xe tăng T-58.

Tính năng chủ yếu:

Loại: xe tăng hạng nhẹ. Khối lượng: 21 tấn; Kíp chiến đấu: 4 người (Trưởng xe, lái xe, pháo thủ và nạp đạn).

Chiều dài: 7,9 m (cả pháo) hoặc 5,6 m (chỉ riêng thân xe); Chiều rộng: 2,9 m; Chiều cao: 2,3 m.

Chiều dày vỏ giáp: 35 mm (tối đa ở thân xe), 15 mm (tối thiểu ở thân xe), 50 mm ở tháp pháo.

Vũ khí chính: Pháo 85mm kiểu 62-85TC. Cơ số đạn: 47 viên.

Vũ khí phụ: Súng máy song song loại K53 cỡ 7,62mm. Cơ số đạn 2000 viên.

Súng máy cao xạ DShK 12,7mm loại 54, cơ số đạn 1.250 viên hoặc súng máy K53 cỡ 7,62mm.

Động cơ: Diesel kiểu 12150L-3 V-12, làm mát bằng nước. Công Suất: 430 mã lực (321 kW). Công suất riêng: 20,5 mã lực / tấn

Vượt chướng ngại vật - Vượt tường cao 0,8 m; Hào chống tăng: 2,85 m; Vượt dốc và đi dốc nghiêng: 30°; khả năng lội nước sâu: 1,4 m (5 m khi được trang bị một ống thở).

Tầm hoạt động: 500km; Tốc độ: 35-60km/h

Xe tăng Trung Quốc bị Sư đoàn 346 tiêu diệt ở Bản Sẩy, Hòa An, Cao Bằng sáng 18-2-1979.

Khi xe tăng Type-59 được sản xuất, nó đã gặp nhiều khó khăn khi hoạt động ở vùng phía nam Trung Quốc. Đây là khu vực mà địa hình bị chia cắt nhiều, chủ yếu bao gồm các dãy núi, đồi, ruộng lúa, hồ và sông ngòi mà cầu đều yếu không chịu được trọng lượng của xe tăng T-59 hay T-54.

Vì vậy, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã đề nghị sản xuất một loại xe tăng có sức chiến đấu lại tương đương T-54 nhưng có thể hoạt động dễ dàng ở khu vực này.

Qua quá trình nghiên cứu, thử nghiệm đến năm 1963 thì việc nghiên cứu kết thúc và mẫu chính thức Type-62 ra đời, được biên chế vào quân đội TQ.

Xe tăng Type-62 sau đó cũng được xuất khẩu hoặc viện trợ cho một số quốc gia khác trên thế giới như Anbania, Bangladesh, Bắc Triều Tiên, Congo, Mali, Sudan, Tanzania, Cambodia.

Do vỏ giáp mỏng, khối lượng nhẹ hơn, lại có công suất riêng khá lớn (hơn 20 mã lực/ tấn) nên Type-62 có khả năng cơ động việt dã tương đối tốt, thích hợp với nhiều loại địa hình.

Trong khi đó, pháo 85 mm với cơ số đạn 47 viên đủ các loại đạn nổ phá sát thương, xuyên và xuyên dưới cỡ cộng với 2 khẩu đại liên trên xe cũng là một cụm hỏa lực đáng kể.

Song cũng do vỏ giáp mỏng nên khả năng phòng vệ của Type-62 khá yếu, chúng dễ dàng bị các loại đạn chống tăng B40, B41,DKZ xuyên thủng và đốt cháy. Mặt khác, do xích mỏng mảnh, bụng xe cũng mỏng nên nếu gặp mìn chống tăng sẽ bị loại khỏi vòng chiến đấu.

Trong thực tế chiến đấu tại biên giới phía Bắc, các đơn vị của Việt Nam đã tiêu diệt khoảng hơn 100 xe Type-62. Đặc biệt, chỉ 1 đại đội song với lối đánh phù hợp, bộ đội ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 12 xe Type-62 trong một trận đánh tại Cao Bằng.

Với những ưu khuyết điểm như vậy, hiện tại Type 62 tuy vẫn còn được sử dụng trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cùng quân đội một số quốc gia khác song chúng đang được hiện đại hóa dần lên.

Xe thiết giáp chở quân K63

Xe thiết giáp chở quân K63 là cách gọi của Việt Nam đối với loại xe bọc thép chở quân Type 63 (tên công nghiệp YW-531) do Tổng Công ty Công nghiệp phương Bắc Trung Quốc sản xuất, chính thức đi vào biên chế năm 1964. Ngoài sử dụng nội địa, xe K63 còn được xuất khẩu hoặc viện trợ cho một số nước, trong đó có Việt Nam.

Các tính năng chủ yếu:

Trọng lượng chiến đấu: 12,8 tấn. Kíp xe: 2 người (Trưởng xe và lái xe). Chiều dày vỏ thép: 14 mm.

Xe dài: 5,476 mét; Xe rộng: 2,978 mét; Xe cao: 2,510 mét và 2, 563 (tính cả súng 12, 7mm); Đáy xe cách mặt đất: 0,433 mét.

Động cơ diesel công suất 260 mã lực; Công suất riêng: 20,3 mã lực/tấn; Tốc độ lớn nhất trên cạn: 60 km/h; Tốc độ bơi lớn nhất: 6 km/h. Hành trình trên bộ: 500 km; Hành trình bơi nước: 60 km.

Khả năng vượt chướng ngại vật - Vượt tường cao: 0,6 mét; Vượt hào: 2,1 mét; Lên dốc: 32o; Xuống dốc: 30o; Đi dốc nghiêng: 25o; Dốc bến lên: 20o; Dốc bến xuống: 25o.

Vũ khí: 01 khẩu đại liên 12,7 mm

Khả năng chuyên chở tối đa: 13 người (1tiểu đội bộ binh).

Thân xe thiết giáp Type-63 làm bằng thép hàn, chỗ dày nhất đạt 14 mm có khả năng chống lại các loại vũ khí bộ binh cỡ nhỏ.

Vị trí động cơ ở phía trước góp phần nâng cao khả năng bảo vệ cho bộ binh. Cửa lên xuống ở phía sau tạo điều kiện lên xuống thuận lợi và nâng cao khả năng sống còn cho bộ binh trong quá trình chiến đấu.

Xe có trọng lượng nhẹ và công suất riêng khá lớn (20,3 mã lực/tấn) nên khả năng cơ động việt dã khá cao trên mọi dịa hình. Xe có khả năng bơi khi tốc độ nước không quá 1m/s và gió cấp 3 nên đảm bảo khả năng vượt các vật cản nước tương đối tốt, đặc biệt là sông hồ trong nội địa.

Xe thiết giáp chở quân K63 của Trung Quốc trên đường rút chạy.

Xe được trang bị 1 đại liên cỡ 12,7 mm có uy lực khá mạnh. Xe có 2 cửa nóc nên bộ binh có thể nhô ra chiến đấu khi đang cơ động. Khi kết hợp đại liên 12,7 mm với các loại vũ khí của tiểu đội bộ binh trên xe sẽ tạo thành một ổ hỏa lực tương đối mạnh.

Bộ xích của xe cũng mỏng mảnh, dễ bị trật, đứt khi đi qua các địa hình phức tạp. Bên cạnh đó, xe bơi bằng xích nên nếu các hộp xích bị móp méo, hỏng thì xe sẽ mất khả năng bơi.Tuy nhiên, nhược điểm của loại xe này là vỏ giáp mỏng nên khả năng bảo vệ tương đối yếu. Nó dễ dàng bị tiêu diệt bởi các loại súng chống tăng B40, B41, DKZ, mìn chống tăng và cả súng bộ binh cỡ lớn như 12,7 mm, 14,5mm...

Trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, đã có khoảng hơn 100 xe loại này bị các đơn vị của Việt Nam loại khỏi vòng chiến đấu.

Tuy vậy, do sự tiện lợi trong sử dụng với danh hiệu "ta-xi chiến trường" cho đến nay Type-63 vẫn đang được sử dụng trong quân đội của nhiều nước.

theo Trí Thức Trẻ