Thứ Sáu, 4 tháng 4, 2014

TÍNH HÁO DANH NHỎ MỌN VỤ LỢI CỦA NGƯỜI VIỆT

TM & CN: Một bài viết hay của tác giả Nguyễn Hoàng Đức. Với tư duy của người nghiên cứu triết học, anh đã ẩn dụ một cách rất khéo léo những thói hư, tật xấu của người Việt qua sự háo danh thiếu liêm sĩ và trí tuệ. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến xứ An-nam mãi không thể nào hòa nhập được với đại đồng văn minh nhân loại.

Trân trọng giới thiệu tới bạn đọc TM & CN.

Việt Nam có hơn 24.000 tiến sĩ, đông bậc nhất thế giới nhưng là nước nghèo nàn đội sổ bậc nhất thế giới, và cũng có đông người làm thơ nhất cỡ ít ra cả triệu nhà thơ nhưng không thấy tác phẩm lớn mà chỉ thấy các mẩu vụn vẫn được gọi là “thơ hắt hơi”, những thứ bé hơn cả chuồng gà chuồng vịt. Tại sao? Bởi vì người Việt chỉ háo danh hão huyền nhắm vào vụ lợi “tham bát bỏ mâm” gắp cho mình, nên đất nước mới nghèo nàn lạc hậu và thi ca chỉ là chiếu rách à ơi mua vui bên chén rượu nhạt hay chén trà trong chốc lát. Hôm nay tôi xin bàn vào việc này.

Số lượng hơn 24.000 tiến sĩ Việt, kết quả thế nào? Nếu mỗi tiến sĩ chỉ cần viết một bài tiểu luận, thì chúng ta sẽ có ngần ấy bài, và in được khoảng 240 cuốn sách dầy dặn với mỗi cuốn có 100 bài. Nhưng than ôi, làm gì có ai thấy hơn hai trăm cuốn sách đó, mà 24 cuốn cũng không?

Chúng ta nghĩ gì khi một tiến sĩ không viết nổi 1 bài tiểu luận? Vậy thì 1 luận án bảo vệ tiến sĩ của người ta dầy hơn một trăm trang A4 lại không hơn một tiểu luận chỉ nghìn chữ thôi sao? Có một vụ án đã vỡ lở tại Việt Nam, một kẻ vừa tốt nghiệp đại học ra trường đã dịch vụ làm luận án cho hơn trăm tiến sĩ bằng cách vào các thư viện sao chép các đoạn tài liệu. Điều đó nói lên cái gì? Đó là những tài liệu vô hồn, chỉ có số liệu mà không có phán đoán, nhưng như vậy cũng đủ cho một bằng tiến sĩ. Ở Việt Nam, tôi được biết trong nhiều khoa người ta chấm lẫn cho nhau để có 100% thạc sĩ, người nào cũng nhận điểm suýt soát tối đa “nắm phải chim” tức là “chín phẩy năm”.

Chính vì tiến sĩ của ta đa số là chép tài liệu, đẩy đít như không cần có ngoại ngữ, hoặc ú ớ mấy từ, không cần biết phán đoán cá nhân, mà như nhân gian nói, chúng ta chỉ là “tiến sĩ giấy”, có thể ăn được, nói được, chém gió rất tài, nhưng lại không làm được. Việc viết được luận án tiến sĩ ư? Đó chỉ là trong khoa, trong trường chấm “nội bộ” lẫn nhau, nhưng việc viết một bài tiểu luận hay một cuốn sách chuyên luận là rất khó, bởi lẽ việc đó phải hiện diện trước công luận, chứ không phải thứ úm ba la chém gió trong nhà. Ngành văn học là dễ thấy nhất, có cả triệu người đã học trình độ đại học, nhưng cả nước không có đủ chục người có khả năng viết phê bình văn học. Còn các ngành khác? So với Nhật Bản hay Hàn Quốc, các chuyên gia tính, số đăng ký bản quyền phát minh ở Việt Nam kém hơn cả nghìn lần. Than ôi, lượng tiến sĩ của mình thì đông gấp năm lần người ta, nhưng bằng phát minh thì chưa được một phần nghìn. Nghĩa là chúng ta chỉ có bằng giấy không thể nào ra quả được.

Ở đời ai cũng khát danh vọng, bởi vì cái đó là biểu hiện của vinh quang cũng như sự tôn trọng. Đó là điều chính đáng! Một viên sỏi ném xuống nước còn sủi bọt lên, làm người mà vô tăm tích như bèo trôi trên sông không để lại dấu vết gì thì cũng thật buồn. Nhưng như người Việt nói “Thế gian chuộng của chuộng công/ Nào ai có chuộng người không bao giờ”. Còn người phương Tây có phương ngôn “Người ta được quí trọng ngang với những gì cống hiến cho mọi người”. Nếu ta không cống hiến hay hy sinh cái gì cho người khác, thì làm sao muốn người ta trọng thị mình? Anh vĩ đại ư? Nhưng anh đã làm gì để thành vĩ đại? Thi hào Goethe nói cụ thể: “Mọi vinh quang phải đi kèm với công lao”. Nằm ngủ gãi háng để rồi vinh quang sẽ rơi xuống như nhện rơi từ trần nhà xuống người mình ư? Trong tự nhiên, cũng có cả qui luật huyền bí, đó là nhện sẽ không bao giờ rơi xuống kẻ vô tích sự, bởi vì “nhện sa sà đón xin đừng vội lo”.

Người phương Tây họ cũng háo danh, nhưng háo danh bằng cách nhảy thác Niagara, nghĩa là đem cả mạng sống mình để đổi lấy sự nổi tiếng còn hơn phải chết buồn trong cuộc đời buồn tẻ không phát xạ bất cứ đốm sáng nào khác thường. Rồi người ta đăng ký các kỷ lục Guinness từ tâng bóng, đến đá cầu hay ăn ớt… Đó chí ít là vinh quang cụ thể mà người ta làm được. Nhưng còn các tiến sĩ ở ta? Họ tung mọi tiền bạc ra chạy cán đích có phải để ẵm chiếc bằng là vinh quang chữ nghĩa? Không, cái bằng đó là thứ để đổi lấy một cấp bậc cụ thể hay mức lương nào đó. Có cả các vị quan đã cho cả người đi học hộ mình mong lĩnh bằng cho việc thăng chức.

Còn việc làm thơ? Có phải người Việt rất yêu thơ không? Không hề! Vì một người yêu âm nhạc hay ca khúc, nghe tiếng nhạc họ liền nhún nhảy hát theo, không cần để ý bài hát đó là của ai sáng tác. Ngược lại người làm thơ xứ ta, yêu thơ đến độ chỉ thích đọc thơ mình, thơ của ai dù hay mấy cũng bị bỏ ngoài tai. Thực ra đó chỉ là người bán hàng, muốn giật loa khỏi tay người khác để quảng cáo cho sản phẩm của mình. Nhưng đây là bi kịch lớn nhất của thơ Việt, sau khi giật được loa, chiếm được sàn diễn trên báo, ngồi ì cả mấy chục năm nhưng không biết quảng cáo sản phẩm của mình có gì.

Làm thơ ở Việt Nam chỉ là cách để người ta háo danh nhanh nhất và lười biếng nhất. Cụ thể, một câu lạc bộ thơ bên phía bắc sông Hồng, sau thời gian đua nhau ra các tập thơ mỏng như tờ rơi, họ liền tiến vào báo văn nghệ của thủ đô, làm vài trang ra mắt chào mừng, liên hoan với nhau mấy can bia to tướng cùng lạc luộc. Điều ấy có vui không? Có! Nhưng nếu chỉ có vậy thì không sao? Đừng này sau khi đăng báo, mấy vị thơ nhà quê lại trách móc, tại sao thơ của chúng tôi không được các nhà phê bình khen như thể thơ đã leo lên báo. Chao ơi, thơ từ bùn đất quê nhà được leo lên báo thủ đô quả là quãng đường của phi công Phạm Tuân bay lên vũ trụ, mà không được bình phẩm sáng láng lại chìm xuồng như bia lạc chui vào dạ dầy rồi lại chui ra ư?
Đấy chúng ta thử nhìn cách sống, cách nghĩ, cách sáng tạo của người Việt. Ở Việt Nam không có một chiếc thuyền thúng nào được đặt tên cả. Còn khi đã đóng một con tầu, thì nó phải được đặt tên rồi mang số hiệu. Muốn làm một con tầu thì sao? Nó phải có ý tưởng lớn đầu tiên như đi dường dài hay vượt biển. Rồi phải được lắp đặt bằng các chi tiết nhỏ nhất bằng kỹ thuật. Một người mới loanh quanh trong sân, nghê nga mấy câu thơ sau lũy tre làng, lại là lúc nông nhàn, sao lại khao khát mình nổi danh là nhà thơ thiên hạ. Làm thơ ít ra phải như Nguyễn Du sôi kinh nấu sử, mang “Thanh Tâm Tài Nhân” của Tầu xa vạn dặm về nhà sao chế mới mong “tầu vượt biển” có danh chứ, đằng này chữ nghĩa chưa hết cấp ba, nông binh còn đượm mùi bùn, sao lại đòi ẵm vương miện vinh quang của chữ nghĩa? Như vậy chẳng là ảo mộng hão là gì?

Tất cả mọi người đều khao khát vinh quang! Tôi cũng không nằm ngoài số đó. Chỉ có điều chúng ta nên nhớ “vinh quang phải ngang bằng công lao”, mấy vần thơ cảm xúc trong ao nhà không cách gì đóng hộ chúng ta một chiến hạm khổng lồ để vượt đại dương đâu?! Nếu chúng ta không sửa soạn đóng tầu với những khung giàn thép khổng lồ, thì đừng có mơ, con thuyền lá tre bé tẹo dù có xinh xắn mấy của ta bỗng chốc trở thành tầu chạy năng lượng hạt nhân lướt sóng đại dương vù vù. Người đời khuyên “biết mình biết ta”, để tránh ảo tưởng về mình, mỗi chúng ta nên biết phản tỉnh để nhận ra khả năng của mình. Một người nông dân làm thơ để vui chơi, không sao cả, nhưng người đó muốn nằm mơ thành thi hào xuất chúng thì không tốt. Càng dở hơn nếu người đó có người chống lưng mong ước hộ mình, câu lạc bộ thơ làng ta sẽ lên báo hết, và sau bữa bia lạc chúng ta sẽ trở thành các nhà thơ được giới phê bình tung hô. Những chiếc thuyền thúng đừng nên nghĩ có một phép lạ nào để nhập nhèm đứng cạnh khoe vóc dáng với tầu sân bay.

Muốn nước nhà hùng mạnh, chúng ta nên có tư duy làm tầu lớn từ khung thép đến sàn tầu. Còn nhanh và tiện như làm thuyền thúng ư, một triệu cái thuyền thúng vẫn chỉ là thứ bé bỏng vô danh mà thôi.

Nguyễn Hoàng Đức 
Nguồn bài viết và hình ảnh: Ở đây.

Được đăng bởi Bau Trinh Xuan 

LƯU MANH HÓA TRÍ THỨC

TM & CN: Bài viết của một bạn trẻ sinh năm 1991 có nick-name trên Facebook là Tiểu Bối. Cho dù chưa có những triết lý sâu, nhưng bài viết đã đi thẳng vào thực trạng của xã hội, của tầng lớp trí thức An-nam hiện nay. Rất đáng để cho các quan chức, những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và khoa học suy ngẫm.

Trân trọng giới thiệu tới bạn đọc TM & CN.

Theo số liệu thống kê cho biết : Cả nước hiện có hơn 9. 000 Giáo Sư, 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ và 2.700.000 cử nhân đại học [1]. Một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Việt Nam hiện nay có nhiều điều kiện để trở thành nước có nền kinh tế phát triển như: nguồn lao động trẻ, thuận tiện giao thông, có nhiều loại tài nguyên,….Tuy vậy, nước ta vẫn trong cái vòng luẩn quẩn của nghèo nàn, lạc hậu. Nguyên nhân chính là ở yếu tố con người, do đất nước chúng ta không tôn trọng giá trị con người, không tôn trọng trí thức đích thực. Yếu tố con người chưa được quan tâm thích đáng trong khi nó mới là nhân tố chính cho sự hưng thịnh/ suy yếu của 1 quốc gia.

Một xã hội bảo thủ, trọng thành tích, hám danh sĩ diện với bằng cấp thường đi đôi với sự coi thường sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật đương nhiên sẽ tụt hậu. Và Việt Nam đã và đang tụt hậu. Cũng theo số liệu thống kế cho biết các chuyên gia WB tính toán “Việt Nam phải mất rất lâu nữa mới đuổi kịp các nước trong khu vực Đông Nam Á: 158 hoặc cũng có thể là 175 năm với Singapore, 95 năm với Thái Lan và 51 năm với Indonesia.” [2]

Vấn đề đầu tư vào giáo dục luôn quyết định hưng, suy của một quốc gia. Nền giáo dục của Việt Nam và cả xã hội Việt Nam làm nhân tài không có đất dụng võ. Với bằng cấp tràn lan, làm người Việt ảo tưởng về mình. Mỗi năm chúng ta có rất nhiều kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ, giáo sư mới nhưng nền kinh tế của chúng ta lẹt đẹt, èo uột, đất nước chúng ta lạc hậu. Nếu tính từ hàm Thứ trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản [3]. Và với số lượng hùng hậu GS, TS, Ths, Cử nhân đã nêu trên, một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Nhưng hiện vẫn đốt đuốc tìm lao động chuyên gia, thiếu hẳn những công trình khoa học - sáng tạo - sáng chế được ứng dụng vào thưc tiễn cuộc sống...Trong khi nền kinh tế sản xuất vẫn là nhân công giá rẻ, miệt mài với gia công phụ thuộc, công nghệ thì vẫn đang loay hoay ở trình... "sản xuất mì tôm".

Người Hàn Quốc họ có quyền tự hào vì họ xây dựng được những sản phẩm mang tính thương hiệu quốc tế như: Sam Sung, Huyndai. Người Nhật có thể vỗ ngực tự hào với Sony, Toyota. Sing có quyền hãnh diện về hàng xuất khẩu điện tử của mình ra khắp thế giới,…Hoàn toàn thiếu một sản phẩm Việt sánh ngang tầm các quốc gia khác trên thế giới.

Thực tế này cho thấy, chất xám Việt đang bị lãng phí. Lãng phí từ khâu đào tạo (đào tạo quá nhiều GS, TS, Ths giả và dỏm), lãng phí cả khâu sử dựng (Nhân tài thực sự chưa được tin dùng và sử dụng hợp lý và trọng dụng họ).

Người Việt, trí thức Việt, dân Việt trách móc Xã hội này đôi khi, nhưng nếu nhìn kỹ lại, thì chính họ chính chúng ta tạo nên Xã hội này. Trí thức Việt nói riêng, dân Việt nói chung nhiều lúc đôi khi có xu hướng, chờ đợi mong mỏi một vị minh quân, 1 vị lãnh đạo tài ba xuất chúng nào đấy xuất hiện để đưa lối dẫn đường họ và lãnh đạo đất nước đang tụt hậu này, nhưng họ quên rằng không ai dẵn dắt và không ai hành động tốt hơn họ tự dẫn dắt mình định hướng cho mình. Đã đến lúc cả dân tộc này và giới trí thức Việt cần nhìn thẳng và nhìn thật vào chính mình, nhìn vào thực tế và tự gánh trách nhiệm cũng như vài trò của mình để tự thoát ra cái vòng luẩn quẩn này chứ không phải một ai đó, 1 vị cứu tinh nào đó hay 1 vị minh quân còn ẩn dật đâu đó.

Nghèo, dốt, thua kém người khác chưa hẳn là cái tội. Cái tội là ở chỗ: nghèo, đói, lạc hậu, thua kém người khác nhưng lại không biết, hay biết mà không chịu thừa nhận và tệ hơn là phải phủ nhận mình nghèo bằng mọi giá vì cái sĩ, để rồi không chịu tìm tòi hướng đi, lối thoát cho mình. Và nếu chúng ta không khắc phục được sự yếu kém của đất nước, nạn nhân cũng chính là chúng ta. Chúng ta là nạn nhân của chúng ta.

Bất cứ xã hội nào, trí thức và yếu tố con người mới là yếu tố hàng đầu để đưa đất nước đi lên. Nước Mỹ phồn vinh với giấc mơ Mỹ và là miền đất Hứa của biết bao người trên thế giới, Người Hàn Quốc chấp nhận “ăn mày chất xám” ở phương tây, tinh thần Samurai của Nhật…Sao không để cho trí thức Việt được tự do trong sáng tạo, tự do trong tư tưởng, tự do trong lựa chọn của mình !? Để họ được cống hiến !?

Ở một góc độ nào đó, có thể nói và khẳng định rằng, đất nước không phát triển được như người ta là vì trí thức Việt chưa phát huy hết vai trò và sứ mệnh của mình. Và lại ở 1 góc độ nào đó, họ bị kiềm kẹp, bị cột, bị trói chặt tư duy, tư tưởng, và cả ý thức hệ, họ cũng muốn sống, muốn cống hiến lắm, muốn được hy sinh nhưng ý thức hệ, sự khác biệt trong tư duy và tư tưởng đã làm cho họ không được chọn, và họ bị cuốn vào vòng xoáy luẩn quẩn của giới trí thức Việt bao đời nay, vòng xoáy của một xã hội mà ngay cả đến trí thức cũng bị đẩy vào con đường “lưu manh hóa”, ở đó nhân phẩm của trí thức bị người khác chà đạp và tự mình chà đạp lên mà sống ,để rồi họ không kịp nhận ra họ vừa là "nạn nhân" mà còn đồng thời là "thủ phạm". Họ hành hạ nhau và dẫm đạp lên nhau mà sống:

- Một bác sĩ với mức lương èo uột, 3 đồng 3 cọc , chết đói, anh ta tìm đủ cách làm khó bệnh nhân để được nhận “lót tay”. Nhưng khi anh ta sử dụng các dịch vụ khác, anh ta lại bị làm khó lại.

- Một thương gia (doanh nhân) vì chạy theo lợi nhuận và tham đồng tiền bất chính không ngại bán rẻ lương tâm mình sản xuất ra những hàng hóa chất lượng kém, độc hại tới sức khỏe của người tiêu dùng, miễn sao lợi nhuận nhiều, xả chất thải độc hại ra môi trường, nhưng rồi chính anh ta hủy hoại môi trường chung anh ta đang sống trong đó và sẽ ra sao nếu anh ta mua phải những sản phẩm độc hại khác do người khác cũng vì tham lam mà sản xuất ra như anh ta.

BẰNG CẤP VÀ TRÌNH ĐỘ - NHÂN VỤ NHÃ THUYÊN

Quan điểm của Baron là không đề cập đến vấn đề chánhchị-chánhem trong bài viết lẫn chém gió. Những vấn đề Baron nêu mang tính phản biện xã hội, đề cao người tốt việc tốt, phê phán cái ác, cái xấu đang hoành hành trong xã hội. Mong muốn xã hội ngày một phát triển, ngày một tốt đẹp.

Tuy nhiên, vụ việc này có liên quan đến vấn đề giáo dục và học thuật, nên có dăm lời vậy.

(1). Khi một học viên cao học đã được Hội đồng khoa học thông qua đề cương đề tài nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ, nghĩa là những vấn đề về học thuật của đề tài đã được chấp nhận về tính khoa học, tính mới trong một luận văn thạc sỹ.

(2). Khi học viên cao học đã bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ của ngành, nghĩa là các nhà giáo, nhà khoa học đã đồng ý luận văn đạt yêu cầu về nội dung và chất lượng nghiên cứu khoa học. Và người bảo vệ đã được công nhận có học vị thạc sỹ.

(3). Mặc dù xã hội hiện tại, tiến sỹ nhiều như lợn con, thạc sỹ nhiều như quân Nguyên. Nhưng quyết định của Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ là quyết định cao nhất về vấn đề học thuật, được nhà nước công nhận và bảo hộ.

(4). Cho dù vì lý do gì, thì một luận văn thạc sỹ đã được Hội đồng chấm luận văn thông qua, và nhà trường có quyết định cấp bằng thạc sỹ cho học viên, nghĩa là học viên luôn đúng. Nếu sai, là lỗi của Hội đồng chấm luận văn. Và dĩ nhiên, Hội đồng chuấn luận văn thạc sỹ là những nhà giáo, nhà khoa học có uy tín, có học hàm học vị, thay mặt Bộ Giáo dục và đào tạo thực hiện công tác đánh giá và kiểm định kết quả nghiên cứu của học viên, kiến nghị nhà trường (thay mặt Bộ Giáo dục và đào tạo) công nhận và cấp bằng cho học viên.

(5). Trong một xã hội háo danh và háo bằng cấp, thật giả trắng đen lẫn lộn. Thì giá trị của một tấm bằng thể hiện ở chỗ người được cấp bằng có xứng đáng với tấm bằng được cấp hay không. Điều đó thể hiện ở chỗ, người đạt được bằng cấp có sử dụng trình độ của tấm bằng đó trong nghiên cứu khoa học, trong việc áp dụng học thuật vào thực tiễn cuộc sống, có những sản phẩm nghiên cứu xứng đáng với trình độ của người được cấp bằng.

(6). Baron đã từng viết một bài báo về chất lượng của thạc sỹ trong nền giáo dục của An-nam: "Thạc sỹ thất nghiệp - vì đâu nên nỗi". Bài báo đã được xuất bản trên Tuần Việt Nam và BBC Việt ngữ. Nội dung bài báo phân tích tại sao rất nhiều thạc sỹ của An-nam thất nghiệp. Và lý do chính là trình độ của người cấp bằng không tương đương với tấm bằng được cấp. Đây đang là một vấn nạn nhức nhối trong hoạt động đào tạo sau đại học của An-nam như chính Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo Phạm Vũ Luận đã thừa nhận trước Hội đồng Quốc gia về giáo dục và phát triển nhân lực về tính trạng bằng thật nhưng học giả.

(7). Thế nên, cho dù vì bất cứ lý do gì, cô Nhã Thuyên - người vừa bị trường ĐH Sư phạm Hà Nội ra quyết định thu hồi luận văn và không công nhận học vị thạc sỹ thì cô này vẫn xứng đáng là một thạc sỹ văn học. Bởi vì, cô Nhã Thuyên có thể sống bằng trí tuệ và kiến thức chuyên môn của tấm bằng thạc sỹ văn học, thông qua những sản phẩm chuyên môn cô đã công bố và được những người quan tâm đón nhận. Có nghĩa, trình độ chuyên môn của cô Nhã Thuyên khác một trời một vực với một cô thạc sỹ văn học loại giỏi ở Đà Nẵng - người được ông Nguyễn Bá Thanh (Trung ương ủy viên, Trưởng ban Nội chính trung ương) phê bút vào đơn xin việc, bởi vì cô này không thể xin được việc với tấm bằng thạc sỹ văn học loại giỏi, và phải chấp nhận đi làm công nhân thời vụ.

(8). Thế nên, giá trị tri thức của một con người không phải thể hiện qua tấm bằng, mà thể hiện qua trí tuệ và đẳng cấp chuyên môn. Vì thế việc không công nhận tấm bằng thạc sỹ không có nghĩa là cô ấy không đủ trình độ thạc sỹ.

(9). Nói thêm chuyện ngoài lề: Đọc một số trang mạng, đặc biệt là trang của bạn Xuân Diêm dúa có phê phán Ban Tuyên giáo TW viết sai từ “học vị” thành “học hàm”. Nói với các bạn này: Cổ nhân đã có câu, không ai nắm tay từ sáng đến tối. Việc nhầm lẫn này chẳng qua là những sai sót nhỏ (cho dù nó được thể hiện trong văn bản hành chính), chứ không thể hiện trình độ hay hiểu biết của người soạn thảo, người ký, vì điều này ai cũng biết.

Việc cái bạn trong giới học thuật bới bèo ra bọ, dựa vào cái sai hơi ngớ ngẫn này để phê phán, chỉ trích, thậm chí chửi bới và mạt sát người khác không có nghĩa là các bạn giỏi giang hay hiểu biết. Mà ngược lại chỉ thể hiện các bạn nhỏ mọn và bần tiện, thậm chí ngu dốt. Các bạn hô hào đao to búa lớn về cải cách, về dân chủ. Nhưng thử hỏi, với bản chất nhỏ mọn và ti tiện ấy, các bạn làm được cái gì và hô hào được ai. Ngõ ngách tốt nhất đừng nên tý tách mặt đường. Thiên hạ có mắt cả đấy.

(Riêng bạn Xuân, nhắc bạn tự vấn lại lương tâm của mình, gần chục năm bạn cầm cái học vị thiến-xĩ của bạn, có bao nhiêu công trình nghiên cứu của bạn tương xứng với tấm bằng ấy? Hay bạn cũng chỉ là loại nghè giấy được sinh ra trong cái hỗn mang và nhố nhăng của nền giáo dục nát như tương bần của xứ An-nam).

(10). Định nói vài dòng, nhưng cứ lan man thành ra dài ngoằng. Bạn nào đọc mà chửi Baron dài từ nhưng thiển ý, Baron ghi nhận và rút kinh nghiệm. Hehe…

(@ by Baron, 2014) 
Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet.
Được đăng bởi Bau Trinh Xuan 

CHỦ QUYỀN BIỂN ĐÔNG: ĐỪNG TUYÊN TRUYỀN CẨU THẢ

Chủ quyền Biển Đông: Đừng tuyên truyền bằng sự cẩu thả

Sai lầm chủ yếu là xác định sai phạm vi chủ quyền, gọi tên sai các đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa. Tệ hơn, một số người còn không xác định được chính xác vị trí nào thuộc chủ quyền Việt Nam...

LTS: Gần đây có nhiều cơ quan thông tin đại chúng, thậm chí các nhà nghiên cứu về vấn đề Biển Đông, cũng đã có những phát biểu sai lầm gây nguy hại. Là người có nhiều năm nghiên cứu, đã từng trực tiếp phụ trách lĩnh vực biên giới- hải đảo của Chính phủ, Nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ TS Trần Công Trục rất trăn trở với những phát biểu không chính xác kể trên. Infonet trân trọng gửi đến độc giả, nhà nghiên cứu bài viết dưới đây.

Cho đến nay, liên quan đến phạm vi, vị trí, tên gọi của các thực thể (features) thuộc quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vẫn còn tồn tại nhiều quan niệm, thông tin khác nhau; ví dụ: phạm vi 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam và tên gọi các đảo cũng đang có những nhận thức sai lầm, bất cập và nguy hại.

Bên cạnh đó, một số phương tiện truyền thông Việt Nam thời gian qua khi đưa tin về vấn đề biển đảo đã vô tình sử dụng sai tên gọi các đảo nổi, đảo chìm, bãi đá trong 2 quần đảo này khi dịch từ báo nước ngoài trong khi trên bản đồ hành chính quốc gia Việt Nam đã ghi rất rõ vị trí, tên gọi các địa danh này.

Cá biệt, ngay cả trong giới nghiên cứu và tham mưu về công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo, vẫn có những quan điểm mơ hồ về các khái niệm đảo, đảo nổi, đảo chìm, đá, bãi cạn, bãi ngầm, quần đảo và quốc gia quần đảo nên đã có tác động tiêu cực đến quá trình đề xuất và xác định đối sách trước những diễn biến phức tạp ở 2 quần đảo này và cả ở trong Biển Đông.

Ví dụ: bãi Cỏ Mây, bãi Cỏ Rong… mặc dù là một bộ phận cấu thành chặt chẽ thuộc quần đảo Trường Sa, đã từng được Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ khẳng định một cách rõ ràng, nhưng vẫn có quan điểm cho rằng những khu vực này là của Philippines, vì nó nằm trong phạm vi 200 hải lý kể từ bờ biển của họ, hoặc chúng chỉ là những bãi cạn không liên quan gì đến quần đảo Trường Sa của Việt Nam, nên không cần lên tiếng trước những động thái vi phạm đến các “thực thể” này.

Đây là một thực tế đáng buồn, không phải chỉ có ở nhận thức sai lầm của những người ít tiếp cận thông tin về Biển Đông mà ngay cả ở những người đứng trên hội trường diễn thuyết về vấn đề Biển Đông cũng có những nhầm lẫn đáng tiếc. 

Sai lầm chủ yếu là xác định sai phạm vi chủ quyền, gọi tên sai các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, thậm chí tệ hơn, một số cá nhân thiếu hiểu biết còn gán ghép sai chủ quyền những hòn đảo thuộc chủ quyền Việt Nam cho nước đang chiếm đóng bất hợp pháp...

Để có thể góp phần làm sáng tỏ vấn đề này, trước hết, chúng tôi xin nói về các “thực thể”, bộ phận hợp thành, của 2 quần đảo này.

Quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa chủ quyền Việt Nam bao gồm đảo nổi, đá, bãi cạn phụ cận. Ảnh: Những đứa trẻ trên đảo Sinh Tồn (Hồng Chuyên)

Ai cũng biết, thậm chí biết rất tường tận, những thông tin có liên quan đến các thực thể (đảo, đá, bãi cạn, đảo chìm, đảo nổi…) của 2 quần đảo này, vì chúng đã từng được công bố công khai trong một số tài liệu, bản đồ đã xuất bản; chẳng hạn, vào những năm 30 của thế kỷ trước, Cộng hòa Pháp trong khi thực thi chủ quyền ở Trường Sa, với tư cách là đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại, đã từng công khai tuyên bố rất chặt chẽ về phạm vi của quần đảo Trường Sa; chẳng hạn, ngày 26 tháng 7 năm 1933, Bộ Ngoại giao Pháp ra thông báo về hành động chiếm đóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa kèm theo danh sách liệt kê tên các đảo đã chiếm hữu cùng tọa độ, bao gồm:

1. Đảo Spratly (chiếm ngày 13 tháng 4 năm 1930),
2. Đảo Caye-d'Amboine (7 tháng 4 năm 1933),
3. Đảo Itu-Aba (10 tháng 4 năm 1933),
4. Nhóm Song Tử (groupe de Deux-îles 10 tháng 4 năm 1933)
5. Đao Loaita (11 tháng 4 năm 1933),
6. Đảo Thi-Tu (12 tháng 4 năm 1933) ;
7. Và các thành phần phụ thuộc của từng đảo này (ile de Spratly et y dépendances) Chính phủ Pháp không quên đề cập đến các “thành phần phụ thuộc” (y dépendances) của từng đảo nổi mà họ đã chiếm đóng. Các “phụ thuộc” đó là gì? Phải chăng chúng cũng chỉ là những đảo nổi? 

Xa hơn nữa, vào thế kỷ XVII, cha ông chúng ta, mặc dù trình độ khoa học kỹ thuật, hàng hải còn thô sơ, nhưng cũng đã từng đếm được số lượng đảo của “bãi Cát Vàng”:

“…Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống đồi mồi nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến bãi, lấy về dùng vôi sát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt….”(Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn biên soạn năm 1776). 

Đối chiếu với số lượng các đảo, đá, bãi cạn đã được liệt kê khá chi tiết dưới đây thì có thể thấy rằng các số liệu này gần tương đương nhau… Vậy thì tại sao lại có thể cho rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ bao gồm các đảo nổi?

Do đó, để có được sự thống nhất, các cơ quan được phân công chịu trách nhiệm tuyên truyền chủ quyền cần có những quan điểm thống nhất, chính thống để tránh những thông tin lầm lạc gây ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia và nhận thức về chủ quyền quốc gia.

TS Trần Công Trục- Hồng Chuyên

GIỜ TRÁI ĐẤT ĐANG ĐI NHẦM ĐƯỜNG?

Đỗ Diệu Hà


TNO - “Giờ Trái Đất không phải là chiến dịch hô hào tiết kiệm điện!” - thủ lĩnh một nhóm hoạt động phong trào vì môi trường ngỡ ngàng trước câu hỏi của tôi - “Nó là một chiến dịch gia tăng nhận thức về sự cần thiết phải hành động trước biến đổi khí hậu cơ mà”.

Sâu xa hóa… không hiểu

Phải nói rằng Giờ Trái Đất là một trong những sự kiện môi trường lớn nhất năm, nhận được sự quan tâm đặc biệt từ các cấp chính quyền - có cấp quốc gia đứng ra phát động, có cấp thành phố đến đọc diễn văn, lại có cả các cấp địa phương nhiệt tình tuyên truyền trên cả loa cố định và loa lưu động suốt buổi tối.

Tôi đã có mặt trong đêm sự kiện tổ chức tại Nhà hát lớn Hà Nội hôm 29.3 vừa qua, nghe ông phó chủ tịch thành phố đọc diễn văn, xem múa hát, và xem clip về biến đổi khí hậu ở nước ta trên màn hình lớn. Nhưng khi tôi hỏi một vài tình nguyện viên có mặt tại đó về những gì họ biết về chương trình, họ chỉ đơn giản nói rằng đây là một chiến dịch bảo vệ môi trường, và tất nhiên, khuyên nhủ người ta nên tiết kiệm điện. Vẫn còn may vì họ là tình nguyện viên, chứ không đến mức “tôi chẳng biết gì hết, thấy đông đông vui vui thì đứng xem thôi” như một số người dân tụ tập đêm đó.

Thực ra, những người sáng lập ra Giờ Trái Đất kỳ vọng ở nó điều gì, nếu không phải là để tiết kiệm điện?

Câu trả lời là để giảm thiểu CO2, thủ phạm chính gây ra biến đổi khí hậu, và đồng thời cũng là loại khí sinh ra khi đốt than đá trong các nhà máy nhiệt điện.

“Bản thân những người tình nguyện viên đi tuyên truyền như mình còn chẳng nắm được gì, thì thử hỏi người dân xem họ có thay đổi được những hành động đã thành thói quen không?” - H.G, một tình nguyện viên Giờ Trái Đất 2013, bày tỏ sự thất vọng - “Năm ngoái mình tham gia chương trình, với hy vọng là sẽ có thêm được kiến thức gì đấy liên quan đến hành động bảo vệ môi trường, cơ mà hoạt động xong thì chẳng thấy được gì, chỉ thấy đây chỉ là một dịp để tụ tập gây tiếng vang thôi”.

Cùng hội cựu tình nguyện viên năm ngoái, K.T phàn nàn: “Chỉ là một hoạt động bề nổi đúng nghĩa. Là một tình nguyện viên nhưng thực sự mình cũng chẳng hiểu nó có ý nghĩa gì cả, chỉ thấy đông người thì hứng đi thôi”. Năm nay, cô sinh viên năm hai này cũng vẫn có mặt tại đêm sự kiện, nhưng với tư cách là một “dân chơi”, chứ không còn là một “dân tình nguyện” nữa.

Nổi tiếng và tai tiếng

Giờ Trái Đất là một sự kiện nổi tiếng, mà đã nổi tiếng thì không thể nào tránh khỏi những tai tiếng, mà điển hình là vụ đốt nến lung linh và vứt rác lung tung năm nào. Vấp phải những chỉ trích mạnh mẽ, vào năm 2012, đêm sự kiện đã chuyển sang sử dụng đèn LED không dùng pin thay cho nến.

Năm nay, có thêm một tín hiệu mới đáng mừng là sự chủ động của các nhóm môi trường nhỏ với các khẩu hiệu “Tắt đèn, đừng thắp nến”, “Đừng biến Giờ Trái Đất thành Giờ Vứt Rác”… Tuy nhiên, ở khu vực Bờ Hồ, hàng quán vỉa hè vẫn thắp nến bình thường, soi sáng cho các bạn trẻ “trà chanh chém gió” trong tiếng sa sả của loa phát thanh kêu gọi hưởng ứng Giờ Trái Đất.

Không chỉ chuyện rác thải và chuyện CO2 từ nến, dư luận còn tấn công vấn đề CO2 từ khói xe của dân đi vui hội, chi phí ngày hội, và chi phí khởi động hệ thống phát điện.

“Tôi không ủng hộ Giờ Trái Đất” - bác Hưng (50 tuổi, thường trú quận Hoàng Mai, Hà Nội, cán bộ ngành kinh tế) thẳng thừng - “Điện không thể dự trữ được, sản xuất ra phải tiêu thụ ngay. Tiết kiệm phải là cả quá trình, chứ không phải dồn lại một thời điểm như thế. Không thể lấy lý do đầu tư cho tương lai mà gây lãng phí hiện tại”.

Còn Hoài Thanh, học sinh trường quốc tế Singapore, thì góp ý: “Mình nghĩ Giờ Trái Đất là một hoạt động có ích, tuy nhiên, phải xem lại quy mô tổ chức và cách thức tổ chức của nó để mang đúng tinh thần giúp cho Trái Đất xanh sạch hơn”. Thanh cũng đưa ra ví dụ về buổi giao lưu nhỏ của các nhóm nhạc sinh viên ở Trung tâm Thương mại Garden cùng thời điểm, tuy không dùng ngọn đèn hay nến nào, nhưng vẫn rất đông khán giả.

Ngược lại, Thùy Dương, sinh viên Trường đại học Kinh tế Quốc dân, đưa ra nhận định: “Phong trào nào cũng thế, muốn khuấy động và gây sự chú ý thì phải chấp nhận đánh đổi cái gì đó thôi”.

Cần nhìn xa hơn những bóng đèn được tắt

Chúng ta thường cho rằng những hành động nhỏ sẽ mang lại giá trị lớn, nhưng hai giáo sư Kevin Anderson và Corinne Le Quere (Anh) lại không nghĩ như thế.

Trên tờ The Guardian (phát hành ngày 13.12.2013), họ đặt ra một câu hỏi vô cùng đơn giản: “Điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả những gì chúng ta làm để tránh mối nguy từ biến đổi khí hậu đều không thực chất?”.

"Chúng tôi đang tiến dần đến vấn đề cốt lõi của khí hậu là phát thải CO2, nghĩa là chuyển mũi hoạt động của mình về hướng nhiên liệu hóa thạch, cụ thể là than đá và các công trình nhiệt điện”, anh Nguyễn Khánh Toàn, phụ trách truyền thông của một phong trào toàn cầu về biến đổi khí hậu tại Việt Nam, lý giải về việc không tiếp tục phát động chiến dịch Một Giờ Trái Đất khác biệt như hồi năm 2012.

Anh Toàn cũng nói thêm: “Không nên quá nặng lời với Giờ Trái Đất. Đúng là nó có những hạn chế riêng của mình, tuy nhiên có một điều không thể phủ nhận rằng được ý tưởng này qua 5 năm diễn ra đã tạo dựng được một đội ngũ hùng hậu các thủ lĩnh khí hậu trên cả nước. Họ rất trẻ và đã được gieo vào đầu những hạt mầm đầu tiên về vấn đề khí hậu. Đó là điều rất đáng mừng. Tôi tin là hầu hết các thủ lĩnh khí hậu hiện thời, đều từ Giờ Trái Đất mà đi lên, hoặc trải qua Giờ Trái Đất mà trưởng thành”.

Rõ ràng, chúng ta cần phải có một cái nhìn công bằng đối với Giờ Trái Đất. Tuy nhiên, nếu Giờ Trái Đất nhắm tới mục tiêu gia tăng nhận thức về sự cần thiết phải hành động trước biến đổi khí hậu, có lẽ hiện nó đang đi sai đường và càng ngày càng sa lầy vào hô hào tiết kiệm điện.

Nguồn: PhươcBeo

ÔNG TẬP CẬN BÌNH ĐỪNG CÓ MÀ QUÊN NHỮNG BÀI HỌC QUÁ KHỨ CÒN ĐẦY SẸO NHA!

Ông Tập Cận Bình, đừng có mà quên những bài học trong quá khứ còn đầy sẹo nha!



Trong chuyến công du Đức, ngày 28-3-2014, Tập Cận Bình đã được Thủ tướng Angela Merkel tặng một món quà: tấm bản đồ Trung Quốc thế kỷ 18. 


Bà Merkel nói rằng đây là tấm bản đồ chính xác đầu tiên về Trung Quốc được vẽ tại Đức năm 1735.

Đó là năm mà Càn Long lên ngôi hoàng đế, đánh dấu một giai đoạn hưng khởi dưới sự cai trị của nhà Thanh với sự mở mang lãnh thổ, trước khi bước vào thời kỳ suy vong trượt dài sau cái chết của Càn Long năm 1799.

Món quà này có ý nghĩa gì?

Có thể bà Merkel muốn ám chỉ rằng, nè, lịch sử nước ông là lịch sử của những tham vọng bành trướng xen lẫn với sự suy sụp tàn tạ của chủ nghĩa đế quốc Trung Hoa, đừng có mà quên những bài học quá khứ còn đầy sẹo, nha!

THƯỢNG VÀ HẠ SÁCH

Khoai@


Bài "Thượng và Hạ sách" là của một bạn đọc Tre Làng gửi đến. Tác giả là một người Việt đang sinh sống ở nước ngoài. 

Không hoàn toàn đồng nhất với tác giả ở một số đoạn do cách hành văn, nhưng Tre Làng vẫn cho đăng để các bạn tham khảo.

Cảm ơn rất nhiều vì tấm lòng của bạn Khanh Kim đối với quê hương đất nước.
---------
Trong những ngày qua, khi những kẻ chống đối chế độ và những kẻ CCCĐ hải ngoại cùng tấu lên những luận điệu bịa đặt bỉ ổi với dụng ý xấu xa để chống phá chính quyền đặc biệt 35 năm ngày Trung Quốc tấn công xâm lược Việt Nam 17/2/1979 qua đó để xuyên tạc, vu khống Chính quyền nhu nhược, hèn yếu, đối sử bất công với các anh hùng liệt sỹ nhất là những đối tượng chính sách, các Thương Binh Liệt sỹ chống quân Trung quốc xâm lược để từ đó kích động Nhân Dân chống đối Đảng và Nhà nước và mục đích cuối cùng của chúng là lật đổ chính quyền hiện nay ở Việt Nam

Thế nhưng những luận điệu vu cáo và bịa đặt là không có cở sở bởi Đảng và Nhà nước Việt Nam không thể quyên, Nhân dân Việt Nam càng không bao giờ quyên sự kiện bi tráng và đau thương này của dân tộc, Đảng ta, Nhân dân ta, Quân đội ta không bao giờ quyên các Anh hùng Liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến này để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Cụ thể ngày 19/2, tại hội nghị bàn về quy chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và Chính phủ, một số đại biểu đã đề cập tới cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc cách đây 35 năm. Trao đổi về vấn đề này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “Đảng, Nhà nước không bao giờ quên cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, cũng không bao giờ quên công lao của những đồng chí, đồng bào mình chiến đấu hy sinh để giành thắng lợi trong cuộc chiến chống xâm lược ngày 17/2/1979″.

Chúng ta hãy đặt niềm tin vào Đảng và Nhà nước như bấy lâu nay chúng ta đã hằng tin tưởng. Trong cuộc đấu tranh mới này NNVN đã:“Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn tỉnh táo, giữ vững lập trường nguyên tắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Họ đã làm tất cả những gì vì lợi ích của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân và sự bình yên của đất nước trước sự lộng hành và bá quyền của ngoại Bang. Ngoại giao khéo léo, chiến lược mềm dẻo trước anh chàng hàng xóm khổng lồ mới trỗi dậy. “Lạt mềm buộc chặt” không dại gì chọc vào “Tổ Kiến lửa, tổ Ong Vò vẽ”, để “Tránh Voi chẳng xấu mặt nào” không cho TQ tạo cớ thêm một sự kiện Vịnh Bắc bộ lần thứ 2 để gây chiến, để bành trướng. Chứ không như những kẻ yêu nước bằng mồm, chuyên đánh giặc bằng mồm kiểu võ biền(hữu dũng mà vô mưu), tư duy chính trị dốt nát của những kẻ ngu chính sử nay ngu cả chính danh nhưng lại định yêu đất nước theo kiểu ngu si, dốt nát của mình nên chúngchỉ chờ cơ hội để trực ngoác cái mồm thối, tru lên tiếng kêu bản năng của loài Sói dữ, tiếng sủa ác độc của loài Cẩu tỏ thái độ kỳ thị, dân tộc cực đoan, kích động hận thù để làm loạn đất nước bằng những hành động cực đoan, vô dân chủ của mình. Thế nhưng NNVN thừa khôn khéo, đủ minh mẫn, đủ khả năng để chống lại thù trong giặc ngoài, ổn định đất nước để phát triển kinh tế mà vẫn có thể có thể chung sống hòa bình với ông hàng xóm khổng lồ đầy tham vọng và tham lam với phương châm “Mười sáu chữ” tránh một cuộc chiến tranh mà vẫn giữ được độc lập, lợi ích quốc gia và chủ quyền dân tộc thế mới là thượng sách.

Lạt mềm buộc chặt, thêm bạn bớt thù không có nghĩa là nhu nhược, hèn yếu như bấy lâu nay bọn phản động trong nước, bọn CCCĐ nước ngoài thường rêu rao thành cái cớ để chúng nói "Cộng sản hèn với giặc". Nếu chúng ta nghe theo(kích động) của họ có nghĩa là đã mắc bẫy, để mơ ước bấy lâu nay của chúng sớm thành hiện thực “Diệt Việt cộng trước chống Trung cộng sau” hoặc muốn “Trung cộng đánh Việt cộng để khơi dậy lòng yêu nước cho người dân Việt”. Thật là vô phúc, thật là một ước mơ quái gở của những người Viêt lạc loài hoang tưởng, bệnh hoạn và điên rồ cũng mang danh lòng yêu nước. Một cái bẫy mà chúng đang cố tình giăng ra để đưa chúng ta vào bẫy. Nếu không tỉnh táo vô tình hay hữu ý mắc phải ý đồ đen tối của chúng đó là sai lầm bi thảm mà người có tầm nhìn chiến lược, hoạch định chính sách không bao giờ phạm phải thế mới là Thượng sách.

Bác Hồ thường nói “Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng” ở thời điểm hiện tại xét về thực lực Ta có gì và Họ có gì? Nền kinh tế của nước ta mới được hồi phục sau chiến tranh và sau những năm đổi mới, mặc dù có những thăng tiến vượt bậc, song đất nước vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu. Nền kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng chưa bền vững, khoa học kỹ thuật và công nghệ vẫn còn lạc hậu và tụt hậu, đời sống của Nhân dân tuy có nhiều cải thiện song vẫn còn nghèo, nhiều nơi Nhân dân ăn vẫn chưa đủ no, áo mặc chưa đủ ấm. Trong khi đó tiềm lực quốc phòng dù có được tăng cường, từng bước hiện đại và có những chủng loại vũ khí đã tiến nhanh lên hiện đại nhưng không đủ, chưa đáp ứng được nhu cầu của cuộc chiến tranh hiện đại bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, vì chúng ta chưa có đủ thực lực, không tự lực, tự cường (hầu như là con số không) về tự sản xuất vũ khí dù chỉ thô sơ chứ chưa nói đến hiện đại, phải đi mua với giá thị trường cắt cổ. Trong khi đó phía Họ thì sao gã hàng xóm khổng lồ tham lam và bành trướng như con hổ đang trỗi dậy với dân số 1tỉ300 triệu người, nền kinh tế đứng hàng thứ 2 trên thế giới, vũ khí tự cung, tự cấp nhưng hiện đại chẳng kém cạnh gì mấy so với Mỹ và Nga

Nói như thế không có nghĩa là chúng ta sợ, chúng ta hèn yếu không dám đánh khi quân thù xâm lược. Đánh khi chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ, chúng ta có tiềm lực, chúng ta có thực lực, chúng ta có sức mạnh đã đánh là phải thắng, “Đánh trận đầu sạch sanh kình ngạc, đánh trận nữa tan tác chim muôn….., Đánh cho quân thù hồn bay phách lạc, đánh cho quân thù ôm đầu máu mà chạy” như tổ tiên, cha ông chúng ngày nào đó mới là Thượng sách.

Đánh khi đất nước còn nghèo, người lính ăn chưa no, đánh khi người lính ra trận không còn đạn để bắn, đánh khi chúng ta không đủ tiền mua vũ khí để đắng cay quay lại thời “Gậy tầm vông giáo mác” ngày nào. Đánh mà như húc đầu vào đá, như Con thiêu thân lao đầu vào lửa, thì chẳng khác nào tự sát và tự thiêu, tự đốt mình cầm chắc chiến bại như thế mới là Hạ sách

Cho nên Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã nhấn mạnh rằng “Sẽ khó để bảo vệ chủ quyền nếu đất nước không có nội lực, không có nền tảng vững chắc về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng với đoàn kết dân tộc mạnh mẽ. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất mà chúng ta cần phấn đấu”.

Vì thế “Chúng ta cần phấn đấu” chưa đối đầu, chúng ta còn phải khôn khéo ngoại giao mềm dẻo, lùi một bước để thăng tiến 5 đến 10 bước chứ không phải 2 bước. Chúng ta phải “Câu giờ”, cần có thời gian hòa bình, ổn định 10 năm, 20 năm, 30 năm thậm chí hàng trăm năm để chúng ta có thời gian phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, để sớm có tiềm lực quốc phòng hiện đại, sớm đưa nước ta trở thành cường quốc hùng mạnh. Bất đắc dĩ chiến tranh nếu xảy ra chúng ta phải là người chiến thắng bởi dân tộc ta có “gien” chiến thắng đã được kết tinh suốt chiều dài lịch sử 4000 năm giữ nước và dựng nước và chúng ta phải làm được điều đó.

Thượng sách và Hạ sách bài học đắt giá ngàn năm vẫn còn nguyên giá trị rất đáng để cho tất cả chúng ta suy ngẫm. Đừng để cho thời nào cũng thế “Cá lớn nuốt Cá bé” không bao giờ trở thành quy luật đó ở Việt Nam. Vì thế Việt Nam phải có đầy đủ yếu tố của một cường quốc theo đúng nghĩa để bạn bè kính nể, kẻ thù phải khiếp sợ không thể bắt nạt theo kiểu “Cá lớn nuốt Cá bé” được nữa.

Ngày 3 tháng 4 năm 2014