Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2014

VỤ "NẮN CONG ĐƯỜNG" - CỰU TƯỚNG LĨNH QUÂN ĐỘI NÓI GÌ?

Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan nói: “Chúng tôi không đồng ý với cách đặt vấn đề tránh nhà quan chức”. 

Nhằm làm rõ thông tin xung quanh việc bẻ cong đường Trường Chinh, Tiền Phong có cuộc trao đổi với một số cựu tướng lĩnh, sỹ quan quân đội có đất tại tuyến đường này.

Cuộc làm việc có Thiếu tướng, Anh hùng quân đội Phạm Ngọc Lan (người bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trên bầu trời Việt Nam); Đại tá Nguyễn Tâm Trinh, nguyên Tư lệnh Binh chủng Rada (Quân chủng Phòng không Không quân - PKKQ) và bà Nguyễn Thị Kim Chung - Bí thư Chi bộ Tổ dân phố 40, phường Khương Thượng, quận Đống Đa (khu vực nhà ở của các tướng lĩnh, sỹ quan quân đội) - đối diện với Quân chủng PKKQ.

Trong dự án đường Trường Chinh, gia đình thiếu tướng Phạm Ngọc Lan bị giải tỏa 4m chiều sâu; hiện còn khoảng 20m chiều sâu, 5m chiều ngang mặt đường Trường Chinh. Thiếu tướng Lan cho biết, cạnh nhà, cùng dãy với gia đình ông cũng đều là tướng lĩnh cấp cao quân đội.

Ảnh: Khu vực nhà ở, xây dựng cho thuê của các tướng lĩnh quân đội.

Trong đó có nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Thượng tướng Phạm Thanh Ngân; Trung tướng, Anh hùng phi công Phạm Tuân; Trung tướng Nguyễn Đức Soát, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam; Đại tá Nguyễn Tiến Sâm, thuộc Quân chủng PKKQ sau là Thứ trưởng Bộ GTVT phụ trách hàng không. Phía sau và kéo dọc lên phía sông Lừ là đất cấp cho các sỹ quan cấp cao khác của Quân chủng PKKQ.

Thiếu tướng Lan cho biết, đường Trường Chinh thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ là đường nội bộ nằm trong khu vực Quân chủng PKKQ và Sân bay Bạch Mai. Để tạo chỗ ổn định, quân chủng cấp đất cho các tướng lĩnh, sỹ quan cao cấp bên cạnh tuyến đường, đối diện cơ quan quân chủng. Sau hòa bình lập lại, quân đội mở rộng dần việc cấp đất cho dân sự, coi đây như một sự chia sẻ lợi ích.

Khi UBND TP Hà Nội có chủ trương mở rộng đường Trường Chinh, nhằm giữ ổn định đời sống cho tướng lĩnh, những người có đóng góp quan trọng nhất vào việc bảo vệ vùng trời của đất nước, quân chủng đề nghị UBND TP Hà Nội lấy vào phần đất của quân chủng, hạn chế lấy đất của nhà tướng lĩnh, sỹ quan.

Sau đó, vào năm 2007, Bộ Quốc phòng lại khẳng định điều này và thống nhất với UBND TP Hà Nội. “Khi biết Bộ Quốc phòng, quân chủng và Thành ủy, UBND TP Hà Nội quyết định như vậy, bản thân những người tham gia quân đội những ngày đầu rất cảm ơn vì được quan tâm”, Thiếu tướng Lan nói.

Bình luận về nghi vấn nắn đường vì tránh nhà quan chức, Thiếu tướng Lan nói: “Đây là ơn nghĩa dành cho bộ máy đầu não bảo vệ vùng trời, chúng tôi không đồng ý với cách đặt vấn đề tránh nhà quan chức. Hiện, nhiều anh em cấp tá, là cấp dưới của chúng tôi tuy cùng dãy nhà nhưng sắp bị giải tỏa (khu vực giải tỏa nằm trong đoạn vuốt nối để giảm độ gấp khúc - PV), bản thân tôi và các tướng lĩnh khác đã và đang đứng ra bảo vệ”, Thiếu tướng Lan nói. 

Bà Nguyễn Thị Kim Chung cũng xác nhận, chi bộ, bao gồm cả các tướng lĩnh cấp cao đã có các nghị quyết đề nghị các cấp bảo vệ chung khu vực đất đã cấp cho tướng lĩnh và sỹ quan quân đội.

Bẻ cong đường là do cơ quan thiết kế ?

Tuyến đường Trường Chinh hiện nay bị chia làm 3 đoạn, hai đoạn hai đầu được mở về phía Bắc; đoạn ở giữa có nhà của các tướng lĩnh sỹ quan PKKQ được mở về phía Nam, hình thành nên tuyến đường cong hình “ghi đông xe đạp”.

Vấn đề được đặt ra là vì sao khi quy hoạch đường Trường Chinh, các nhà quy hoạch lại không lấy tất cả về phía Nam như quân chủng PKKQ đề nghị để có một tuyến đường thẳng. Vấn đề này theo giải thích của Ban quản lý các dự án trọng điểm phát triển đô thị Hà Nội là do hai đầu đã xây dựng cầu vượt Ngã Tư Vọng và Ngã Tư Sở nên phải hướng đường Trường Chinh đi vào khoảng trống của hai cầu này.

Tuy nhiên, theo ý kiến của các tướng lĩnh, sỹ quan trong cuộc gặp với PV Tiền Phong nói trên, sai sót ở đây là do khi xây dựng hai cầu vượt này, cơ quan thiết kế không tính hết hướng tuyến của đường Trường Chinh; không tham khảo ý kiến của quân chủng. “Chủ trương của quân chủng PKKQ giữ lại phần đất của các gia đình sỹ quan trên được đưa ra từ năm 2000, lúc đó chưa có hai cây cầu vượt. Ở đây, các nhà thiết kế đã đặt mọi việc vào thế đã rồi”, Đại tá Nguyễn Tâm Trinh nói./.

Theo Tiền phong

CAVE KỂ CHUYỆN - TS PHẠM CHÍ DŨNG NÓI VỀ CÁCH MẠNG UKRAINE

Cuteo@: Tên gốc của bài là "Tiến sĩ vừa viết vừa phịa"!


Đọc xong bài này trên Lều Báo, mình vội kiểm chứng ngay. Hóa ra TS Phạm Chí Dũng chỉ là tay háo danh và bịa chuyện. Từ câu chuyện này mình liên tưởng đến lối kể chuyện của các ả cave, hay lối trình bày của các con nghiện - Không có chút nào đáng tin.

Xin bê bài của Lều Báo về đây hầu anh em.
------------------------

Trong bài viết “Cách mạng Ukraine và kịch bản VN” đăng trên BBC ngày 4/3/2014, ông Phạm Chí Dũng, người thường tự xưng là tiến sĩ kinh tế, nhà báo tự do, chuyên gia bình luận thời sự chính trị, đã bình luận về tình hình Ukraine và Việt Nam.

Mở đầu bài báo, ông PCD liên tưởng cuộc khủng hoảng Ukraine đến Việt Nam: “Tháng 2 năm 2014. Người dân Việt lại đau đáu với câu hỏi: kịch bản và số phận nền chính trị Việt Nam sẽ ra sao sau sự biến Ukraine?”. Tôi không nghĩ người dân Việt Nam lại đau đáu suy nghĩ về nền chính trị nước mình do khủng hoảng ở Ukraine đến như vậy. Ukraine đã trải qua mấy cuộc cách mạng cam rồi, có thêm mấy cuộc nữa cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nền chính trị Việt Nam. Ngay câu mở đầu ông tiến sĩ đã phịa rồi.

Sang ngay câu tiếp theo thì thấy ông này ngu, PCD tiếp tục đặt câu hỏi: “Nếu lịch sử tái hiện, liệu “Mùa xuân Ukraine” có tràn sang Belarus của Lukashenko và nước Nga của Putin hay không?”. Nhờ “mùa xuân Ukraine” mà đến lúc này có thể khẳng định nước Nga đã xử lý xong số phận Ukraine, được thêm lãnh thổ có địa chính trị quan trọng như vậy là một canh bạc giá hời với Putin.

Sang câu thứ ba thì ông tiến sĩ mơ có “mùa xuân” ở khu vực Đông Dương, TS khẳng định “Mong nguyện nở hoa đó là có thật”. Các nước có “mùa xuân” thì nhân dân ở đó không chìm trong chiến tranh thì cũng khổ sở về kinh tế, chính trị. Mong nước mình cũng thế thì có phải là thằng phản dân hại nước hay không ? Trong bài viết, Phạm Chí Dũng còn nói rằng Yanukovych là chế độ độc tài !? Yanukovych đã chiến thắng phe “mùa xuân” bằng một cuộc bầu cử mà cả Mỹ và Châu Âu phải thừa nhận công bằng, còn phe lãnh đạo hiện nay thì lật Yanukovych bằng một cuộc đảo chính bạo lực !? Phe nào mới là độc tài ?

Đấy là 03 câu mở đầu một bài viết bình luận chính trị của một tiến sĩ kinh tế ! Tiếp theo là một loạt bình luận chủ quan và bịa đặt mà Dũng tự tưởng tượng ra.

- Người dân Hà Nội còn kháo tin về một làn sóng quan chức thủ đô vội vã gom góp của nả để bay ra nước ngoài khi cái tin Yanukovych bị lật đổ được chính thức xác nhận. Tin này do PCD tự kháo ra thì đúng hơn. Người dân Sài Gòn cũng kháo tin rằng các quan chức đã cười bể bụng khi đọc tin này.

- Người ta cũng không quên câu chuyện ít nhất vài quan chức nào đó đã bị lên huyết áp đến mức phải cấp tốc nhập viện khi lệnh truy nã Yanukovych được chính phủ mới ở Ukraine ban hành. Quan chức nào sao không thấy các nhà dân chủ hả hê đưa lên mạng nhỉ ?

- Vào đầu năm 2014, hoạt động tái nhận thức như vậy càng trở nên âm ỉ và xung đột trong đầy rẫy hoang mang, càng khiến mỗi công an viên thêm bất an và tự suy ngẫm về đường công danh, mối tư lợi hay số phận bất trắc đính kèm của anh ta, chính vào lúc xảy ra ra cái chết cực kỳ bất bình thường ngay trong nội bộ ngành: Thượng tướng, thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ. Tiến sĩ PCD nắm được tâm tư cả ngành công an nữa đấy !

Tiến sĩ giỏi bịa đặt như vậy thì cũng nên hỏi bằng tiến sĩ ông Phạm Chí Dũng có được bằng cách nào? Ở VN bây giờ ai cũng biết tiến sĩ giấy đầy rẫy và không loại trừ PCD, người từng ăn lương nhà nước cũng xoay được một tờ giấy như thế.

Ảnh: Người dân Crimea biểu tình đòi sát nhập vào Nga.

Nếu bình luận về tình hình Ukraina hiện nay thì không cần phải nói nhiều, chỉ cần đọc bài viết “Bài học từ Ukraina” đăng trên báo Lao động ngày 17/03/2014 của TS Nguyễn Sĩ Dũng là có thể hiểu gốc rễ của vấn đề:

“Ukraina là một đất nước nằm kẹt giữa Nga và Châu Âu. Hơn thế nữa, một nửa dân số ở phía tây của đất nước thì muốn theo phương Tây mà không theo Nga; một nửa dân số ở phía đông của đất nước thì muốn theo Nga mà không theo phương Tây.

Với một vị trí địa chính trị như vậy, với một cộng đồng dân cư theo đuổi các giá trị khác nhau như vậy, lựa chọn duy nhất đúng cho Ukraina là quy chế trung lập. Ukraina sẽ bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ và cuộc sống hòa bình, thịnh vượng cho nhân dân, nếu không cố gắng liên minh với bất cứ một bên nào cả. Một lựa chọn khác có độ rủi ro cao hơn, nhưng vẫn đúng đắn hơn là làm cầu nối giữa Nga với Châu Âu và Châu Âu với Nga. Ukraina có thể tạo điều kiện cho sự trao đổi, hợp tác giữa Nga với Châu Âu và Châu Âu với Nga. Ukraina cũng có thể làm trung gian cho cả hai bên trong quá trình giao lưu và hội nhập.

Rất tiếc, có vẻ như những lựa chọn nói trên đã không được các nhà lãnh đạo của Ukraina quan tâm. Thực tế, một số nhà lãnh đạo đã lựa chọn việc liên minh với phương Tây. Một số nhà lãnh đạo khác lại chọn việc liên minh với Nga và thực tế là đất nước đang bị đẩy vào một cuộc khủng hoảng hết sức trầm trọng. Nguy cơ của nội chiến, của việc bị nước ngoài can thiệp treo lơ lửng ở trên đầu. Một sự lựa chọn đúng đắn có thể biến những thách thức của vị trí địa chính trị trở thành cơ hội. Ngược lại, một sự lựa chọn sai lầm có thể biến những cơ hội của vị trí địa chính trị trở thành thách thức… và nhiều khi là thách thức khôn cùng. Trên đây là bài học mà người Ukraina đã trả giá thay cho các dân tộc khác, trong đó có dân tộc chúng ta”.

Bài viết của TS Nguyễn Sĩ Dũng trên một tờ báo quốc doanh rất thẳng thắn, sâu sắc và không ngại cảnh báo bài học cho Việt Nam.

Hai tiến sĩ cùng tên Dũng, người bình luận trên cái gọi là báo chí tự do BBC, RFA thì dài dòng, bịa đặt; người bình trên báo quốc doanh thì ngắn gọn nhưng đáng suy ngẫm. Ai là tiến sĩ giả, ai viết báo để lấy tiền ?

© Vương Văn Long
Thao Nguyen Cao tre.trithuc@gmail.com

Cám ơn bạn đã quan tâm đến Leubao.vn! 

TIÊN NHÂN LŨ SÚC VẬT

Bài hay


Hôm nay vô tình chị đọc một bài báo tiêu đề "Bị cấm cửa mới giật mình" trên tờ Doanh nhân Sài gòn chia sẻ về việc một nữ doanh nhân bị đuổi khỏi gian hàng của một công ty Đức trong hội chợ tổ chức tại Hồng Kông, chỉ bởi vì chị mang quốc tịch Việt Nam. 

Bài báo nhân tiện phê phán thói hư tật xấu của người Việt ở nước ngoài. Kết thúc, tác giả cảnh báo và đổ lỗi những thói hư tật xấu đó hoàn toàn do nền giáo dục Việt Nam tạo nên.
 
Đọc xong, chị cảm thấy uất nghẹn và khinh bỉ đến tột độ. Một tờ báo của Việt Nam mà không bảo vệ dù chỉ là một lời đối với bất công mà nữ doanh nhân kia phải chịu. Không những chúng hả hê khi thấy người Việt bị hạ nhục mà còn nhân danh đấng bề trên để giáo huấn cộng đồng. 

Tiên nhân lũ súc vật.

Chị phải bớt chút thời gian vàng ngọc mở mang đầu óc của các cô, lũ con bò luôn hung hăng với người mình nhưng lại rúm ró tự ti mỗi khi ra nước ngoài để các cô biết cách ứng xử trong một thế giới văn minh. 

Cách đây 50 năm. Năm 1965, Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc. Hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ đã tham gia kí Công ước này. Việt Nam tham gia năm 1981.

Công ước xét rằng: (Trích)
"Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người tuyên bố rằng, mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền, và rằng tất cả mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do trong Tuyên ngôn, mà không có bất kỳ sự phân biệt nào, cụ thể như về chủng tộc, màu da hoặc nguồn gốc dân tộc. Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, vàcó quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng để chống lại bất kỳ sự phânbiệt đối xử hay bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào."
Chị trích công ước của LHQ để các cô rõ hơn về quyền con người của mình trên phạm vi toàn thế giới trừ ... ở Lừa. Hehe.

Tại các quốc gia văn minh, bất kì hành vi phân biệt đối xử nào vi phạm quyền con người, hoặc chủng tộc đều bị trả giá rất đắt. Cá nhân có thể bị bỏ tù, công ty, tổ chức có thể bị phá sản hoặc bị cộng đồng tẩy chay nếu cơ quan công quyền chứng minh được hành vi vi phạm.

Trong thời đại này, một cá nhân ở bất kì đâu trên thế giới có thể lên án một tổ chức toàn cầu, một quốc gia có thể thay đổi chính sách đối ngoại vì một cá nhân bị xâm hại quyền con người ở một quốc gia xa lắc xa lơ nào đó.

Trường hợp Global Witness tố cáo bầu Đức phá rừng, ảnh hưởng đến quyền sống của dân Lào, Liên minh Châu Âu và Chính phủ Mỹ luôn có những cáo buộc về nhân quyền đối với các quốc gia bắt giam các nhà bất đồng chính kiến là những ví dụ điển hình. Mặc dù những cáo buộc đôi khi là không chính xác.

Ví dụ thế để biết, khi có thông tin một công dân Việt Nam bị phân biệt đối xử ở nước ngoài, thay vì quay lại cắn dân mình, tờ báo nắm thông tin cần có trách nhiệm lên tiếng để kêu gọi cộng đồng quốc tế phân xử, đồng thời hướng dẫn công dân đến khiếu nại tại các cơ quan ngoại giao quốc tế tại nơi bị xâm hại, cũng như các cơ quan đại diện của chính phủ Việt Nam để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Một tờ báo thay vì lên tiếng dạy bảo công dân mình thì cần thông qua mạng lưới truyền thông trong nước và quốc tế lên án hành vi vi phạm công ước quốc tế. Chị tin, truyền thông quốc tế sẵn sàng đứng về phía người bị hại trong trường hợp này, bất chấp đối tượng thuộc quốc tịch nào, tầm cỡ ra sao. Lúc đó, thảm hoạ sẽ không phải là người Việt Nam mà chính là công ty kia.

Suốt mấy ngày hôm nay, rất nhiều người đã lớn tiếng kêu Nhục khi báo chí đưa tin về một số sai phạm của người Việt ở nước ngoài. Chị xin nói luôn, nhục cái mả mẹ các cô. Ai sai người đó phải chịu trách nhiệm chứ các cô liên quan gì mà Nhục? Có chăng Nhục ở chỗ chúng ta đã không bảo vệ được chính chúng ta mỗi khi có hoạn nạn xảy ra. 

Đó mới là nỗi Nhục đớn hèn nhất đối với một dân tộc các cô ạ.

P/S: Nếu thông tin về việc nữ doanh nhân kia bị cấm vào gian hàng của một công ty Đức do mang quốc tịch Việt Nam với lí do nhiều người Việt Nam ăn cắp, xin vui lòng gửi thông tin cho chị. Với kinh nghiệm và mối quan hệ quốc tế, chị hứa công ty kia phải lên tiếng xin lỗi và sẽ đối mặt với những án phạt nặng nề. 

Còn nếu sự việc không có thật, tờ Doanh nhân Sài gòn đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc báo chí, vu khống và làm ảnh hưởng nghiêm trọng hình ảnh của cộng đồng doanh nghiệp Đức trên toàn thế giới, đồng thời gây tác hại xấu đến quan hệ ngoại giao hai nước Việt - Đức. Vì một số sai phạm cá nhân mà dám gộp cả một dân tộc vào để bỡn cợt làm xấu hình ảnh quốc gia. Đương nhiên, đó là một tội lớn ngang tội phản quốc. Chị thật.

Nguồn: FB Mượt Mà

CHÍNH SÁCH “XOAY TRỤC” SANG CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG CỦA MỸ: NHIỀU HỎA MÙ HƠN HỎA LỰC

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)


(Tạp chí Foreign Policy – 31/1/2014)

Chiếc tàu sân bay ì ạch được biết đến như là nước Mỹ nên thực hiện một sự “xoay trục” đúng như cái tên của nó: một sự chuyển dịch từ chủ trương quân sự sang tinh thần ưa chuộng hòa bình

Trong thời đại của chính sách kinh tế thắt lưng buộc bụng và hợp tác về mặt chính sách với Trung Quốc, sự “xoay trục” sang Thái Bình Dương của Mỹ chẳng khác gì một điệu nhảy phức tạp mà ở đó Mỹ lùi về phía sau trong khi đấy những đồng minh của mình về phía trước.

Trong bản cập nhật cuốn “Từ điển của quỷ dữ” trong tương lai, tác phẩm mổ xẻ thái độ đạo đức giả trong ngôn ngữ học của đời sống hiện đại của tác giả người Mỹ nổi tiếng Ambrose Gwinnett Bierce, một từ duy nhất sẽ đi kèm với cụm từ “sự xoay trục sang Thái Bình Dương” đó là: rút lui.

Dường như đó là một cách thức kỳ lạ khi miêu tả nỗ lực mạnh mẽ của Chính quyền Obama trong việc tái định hướng chính sách đối ngoại và quân sự của mình nhằm vào châu Á. Xét cho cùng, êkíp của Tổng thống Obama đã nhấn mạnh rằng “sự xoay trục” sang Thái Bình Dương sẽ là một sự tái khẳng định mạnh mẽ về quyền lực của Mỹ tại một khu vực mang tính chiến lược trên thế giới và một sự tái đảm bảo có chủ tâm đối với các đồng minh ủng hộ Mỹ khi đối đầu với Trung Quốc.

Quả thực, đôi khi “sự xoay trục” dường như không hẳn là một thứ thuốc chữa bách bệnh cho tất thảy những gì gây phiền não cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Bối rối về những thất bại ở Iraq và Afghanistan? Vậy hãy ra đi để tìm kiếm các vùng đất hòa bình hơn. Lo âu về việc tất cả kẻ địch đang tan biến và Lầu Năm Góc đã đánh mất lý do hiện hữu của mình? Vậy hay là theo gót Trung Quốc, siêu cường tương lai duy nhất có thể tưởng tượng được đang trỗi dậy? Và nếu bận tâm về tình trạng của nền kinh tế Mỹ? Vậy Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), thỏa thuận thương mại tự do khu vực mà Mỹ đang cố gắng thương lượng có thể là liều thuốc bổ mà các tập đoàn của Mỹ đang thèm muốn.

Tuy nhiên, trên thực tế, sự “tái cân bằng mang tính chiến lược” mà Chính quyền Obama đang thúc đẩy như là sự điều chỉnh giữa nhiệm kỳ đối với chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn chỉ mạnh mẽ trong giọng điệu nhưng lại khá yếu ớt về nội dung. Hãy nghĩ về điều này như là một tiểu thuyết hư cấu tài tình mà nhiều độc giả sẵn sàng tạm ngừng sự hoài nghi của họ vì sự quảng cáo của nó. Xét cho cùng, trong thời đại sắp tới của chính sách thắt lưng buộc bụng của Lầu Năm Góc và phản ứng dữ dội của công luận trong nước,Washington có thể sẽ cảm thấy khó khăn khi dịch chuyển thêm bất kỳ nguồn lực đáng kể nào sang khu vực châu Á. Thậm chí TPP cũng chỉ là một sự thừa nhận về việc khá nhiều quyền lực kinh tế trong khu vực đã rơi vào tay Trung Quốc.

Ngoài ra cũng cần phải lưu ý đến một giai đoạn lịch sử lâu dài hơn. Mỹ đã bắt đầu rút quân khỏi châu Á kể từ những năm 1970, mặc dù “động thái chiến lược rút lui về hậu phương” này theo thuật ngữ quân sự nổi tiếng – cũng đã không diễn ra nhanh chóng hay đi kèm với những bức ảnh “sứ mệnh hơàn thành” .

“Sự xoay trục” được quảng bá rầm rộ này của chính phủ giống hơn bao giờ hết một mảng cỏ tróc – một cú xuynh gậy, một cú đánh trượt, và một lỗ gôn, so với là bất cứ cái gì gần giống như một cú át (hole-in-one – ghi bàn thắng chỉ bằng một cú đánh).

Dấu chân dần thu hẹp

Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã tham chiến và đổ máu ở châu Á nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trên Trái Đất. Từ năm 1950 đến năm 1953, dưới ngọn cờ Liên hợp quốc, các lực lượng Mỹ đã phải vật lộn để kiểm soát bán đảo Triều Tiên, kết thúc mà không ký kết được một hiệp ước hòa bình nào cùng với một sự bế tắc ở cùng đường phân chia nơi cuộc chiến đã bắt đầu. Tại một thời điểm khi cuộc chiến tranh Việt Nam mở rộng vào những năm 1960 và 1970, số lính Mỹ tại châu Á đã tăng lên tới hơn 800.000 quân. Tuy nhiên, kể từ khi cuộc chiến tranh thảm khốc này kết thúc, Washington đã rút quân khỏi khu vực này một cách rất từ từ và từng đợt. Hiện giờ, số nhân viên quân sự Mỹ ở khu vực này đã giảm xuống dưới 100.000. Có thể cho là con số thấp này ở vào những năm George w. Bush nắm quyền khi quân đội Mỹ sa lầy ở Iraq và Afghanistan, và những người chỉ trích đã bắt đầu cáo buộc Chính quyền Bush đã “đánh mất châu Á” vào tay một Trung Quổc đang trỗi dậy.

Nhìn vào các con số, không khó để đi đến kết luận rằng sự chú ý của Washington quả thực đã dịch chuyển ra khỏi khu vực Thái Bình Dương. Hãy xem xét Triều Tiên. Hòa bình khó có thể diễn ra trên bán đảo này. Thực tế, vũ khí hạt nhân của Triều Tiên và sự hiện đại hóa quân sự trên diện rộng của Hàn Quốc chỉ có tác dụng làm gia tăng căng thẳng.

Tuy nhiên, Mỹ đã liên tục cắt giảm các lực lượng của mình cả về quy mô lẫn tầm quan trọng ở Hàn Quốc trong một tiến trình chuyển giao quyền lực bị ngắt quãng. Trong vòng 45 năm qua, Washington đã ba lần đơn phương rút quân khỏi bán đảo Triều Tiên và đều nhận được sự không đồng tình từ phía Chính phủ Hàn Quốc. Đầu những năm 1970, gần 70.000 lính Mỹ đã đóng quân ở Hàn Quốc vào thời điểm Chính quyền Nixon lần đầu tiên rút toàn bộ một sư đoàn gồm 20.000 quân. Sau đó, chính quyền Carter, ngay từ đầu đã rất muốn rút tất cả các lực lượng của Mỹ, đã chấp nhận một sự giảm quân hạn chế khác. Vào năm 1991, trước việc chủ nghĩa cộng sản trên phần lớn thế giới bị sụp đổ (nhưng không phải ở Triều Tiên), Chính quyền George H.w. Bush đã đơn phương rút vũ khí hạt nhân chiến thuật khỏi bán đảo này.

Ở thế kỷ 21, sự hiện diện quân sự Mỹ đã một lần nữa thu hẹp lại – từ khoảng 37.000 quân xuống còn 28.500 quân ở thời điểm hiện tại, lần này là bởi các cuộc đàm phán giữa Washington và Seoul. (Một đội quân nhỏ gồm 800 binh sỹ mới đây đã được cử sang Hàn Quốc để gửi một tín hiệu về “quyết tâm” của Mỹ đối với Triều Tiên, nhưng chỉ luân phiên 9 tháng một lần). Ngoài ra, quân đội Mỹ đồn trú gần khu vực phi quân sự phân cách hai miền Bắc Nam, từ lâu đã mang ý nghĩa như là “một sợi dây bẫy” sẽ đảm bảo cho sự dính líu của Mỹ trong bất kỳ cuộc chiến nào trong tương lai giữa hai nước, đang được dịch chuyển về phía Nam. Tuy nhiên, các quan chức của Lầu Năm Góc gần đây đã nói bóng gió về việc để lại một phần lực lượng ở khu vực này. Hai nước hiện vẫn đang đàm phán việc chuyển giao những gì mà sáu thập kỷ sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên kết thúc vẫn được nhắc tới như là “kiểm soát hoạt động thời chiến,” một việc đáng ra phải làm từ lâu. Việc cắt giảm lực lượng đã đi cùng với việc Mỹ đóng cửa và củng cố các căn cứ của mình, bao gồm cả đơn vị đồn trú lớn Yongsan nằm giữa thủ đô Seoul của Hàn Quốc. Hàn Quốc sẽ nắm toàn quyền kiểm soát nó trong một vài năm tới.

“Dấu chân” Mỹ không chỉ thu hẹp lại ở Hàn Quốc. Một chiều hướng tái triển khai lặng lẽ hơn cũng đã cắt giảm các lực lượng mặt đất của Mỹ ở Nhật Bản, từ khoảng 46.000 vào năm 1990 xuống đội ngũ gồm 38.000 quân hiện tại. Những thay đổi thậm chí còn lớn hơn hiện đang được xem xét.

Vào năm 2000, trong một chuyến công du tới Okinawa – quận lớn nhất phía Nam Nhật Bản, Tổng thống Bill Clinton đã hứa hẹn sẽ thu nhỏ sự hiện diện quân sự đáng kinh ngạc của Mỹ trên hòn đảo này. Vào thời điểm đó, người dân Okinavva đã rất giận dữ về một loạt vụ sát hại và cưỡng hiếp do lính Mỹ thực hiện cũng như những vụ tai nạn liên quan đến quân sự đã cướp đi sinh mạng của người dân Okinawa và những mối đe dọa đến sức khỏe của họ từ đủ thứ ô nhiễm tạo ra bởi hơn 30 căn cứ quân sự của Mỹ. Kể từ đó, Washington đã theo đuổi một kế hoạch nhằm đóng cửa Căn cứ Không quân – Thủy quân lục chiến Futenma – một cơ sở cũ kỹ tọa lạc một cách nguy hiểm giữa một thành phố hiện đại – và xây dựng một căn cứ thay thế ở một nơi khác trên đảo hòn này. Kế hoạch này cũng đòi hỏi tái bố trí 9.000 lính thủy đánh bộ trên đảo Okinawa tới các khu căn cứ khác của Mỹ ở Thái Bình Dương. Nếu kế hoạch này được triển khai, các lực lượng của Mỹ tại Nhật Bản sẽ được giảm đến 25%.

Tại những nơi khác ở châu Á, dưới áp lực từ các nhà hoạt động chính trị địa phương, Mỹ đã phải đóng cửa hai căn cứ quân sự ở Philippines vào năm 1991, rút gần 15.000 binh sỹ ở nước này và thay thế một dàn xếp đặt căn cứ lâu dài bằng một thỏa thuận khiêm tốn hơn: “Thỏa thuận Các lực lượng thăm viếng”. Trong những năm gần đây, Washington đã đàm phán về “các hiệp định hợp tác” với nhiều nước trong khu vực, bao gồm cả kẻ địch cũ của mình là Việt Nam, nhưng đã không xây dựng được bất kỳ căn cứ mới đáng kể nào. Ngoài các lực lượng ở Nhật Bản và Hàn Quốc, các binh sỹ trên các tàu chiến và tàu ngầm, sự hiện diện quân sự của Mỹ ở phần còn lại của khu vực này là không đáng kể.

Dĩ nhiên, việc cắt giảm binh sỹ và đóng cửa các căn cứ không nhất thiết là những dấu hiệu rút lui. Xét cho cùng, Lầu Năm Góc đang tập trung vào sự chuyển đổi sang một tư thế chiến đấu linh hoạt hơn, xem nhẹ các căn cứ cố định và chú trọng vào các đơn vị phản ứng nhanh nhẹ nhàng hơn. Trong khi đó, việc Mỹ hiện đại hóa các lực lượng của mình có nghĩa rằng hỏa lực của Mỹ đã tăng lên ngay cả khi sự hiện diện của nước này ở Thái Bình Dương đã suy giảm. Ngoài ra, Mỹ đã nhấn mạnh vào việc triển khai các lực lượng tác chiến đặc biệt như một phần của các hoạt động chống khủng bố ở những nơi như Philippines, Thái Lan và Indonesia, trong khi đẩy mạnh triển khai nhiều lớp phòng thủ tên lửa đạn đạo ở khu vực. Tất cả những chính sách này đã đi trước chiến lược “xoay trục”.

Tuy nhiên, đường xu hướng kể từ những năm 1970 ngày càng trở nên rõ nét. Ngay cả khi năng lực được nâng cấp, các lực lượng Mỹ cũng đã từ từ dịch chuyển sang một tư thế ngoài đường chân trời ở châu Á, với việc các căn cứ quân sự ở Guam và Hawai ngày càng trở nên quan trọng trong khi những căn cứ ở Hàn Quốc và Nhật Bản thì âm thầm xuống cấp. Khi rút lui dần, Washington cũng gia tăng sức ép đối với các đồng minh, buộc họ phải chi trả nhiều hơn để hỗ trợ các lực lượng của Mỹ đồn trú tại các vùng lãnh thổ của các nước này, mua các hệ thống vũ khí đắt đỏ hơn của Mỹ và tăng cường quân đội của riêng họ. Như Mỹ từng tìm cách “Việt Nam hóa” và “Iraq hóa” các lực lượng quân sự ở các nước mà Mỹ đã rút quân khỏi, Mỹ đã thực hiện chiến lược “châu Á hóa” từ từ của riêng mình ở khu vực Thái Bình Dương.

ẢNH RẤT ĐẸP: LỚP HỌC CỦA "CÔ GIÁO CHUI TÚI NILON QUA SUỐI"

Lớp học nghèo, rách nát hơn cả thời chiến tranh với Mỹ, nhưng nhìn cuộc sống êm đềm, tình "cô giáo - học trò" như tình mẫu tử, thật không thấy gì đẹp hơn. Vô cùng biết ơn và cảm ơn các thầy cô giáo và các cháu vùng cao đã vượt lên cuộc sống khốn khó, không hề kêu ca, cùng nhau dạy tốt học tốt để phát triển đất nước.


Cô giáo chui túi nilon qua suối: Cuộc sống của người bất ngờ nổi tiếngSau clip cô giáo chui túi nilon qua suối, cô giáo Tòng Thị Minh "bỗng dưng nổi tiếng". Cuộc sống của cô giáo cắm bản như thế nào, hãy cùng Infonet tham gia một buổi học của cô Minh.

Cô giáo Minh treo bảng bé ngoan mẫu giáo lớn 5 tuổi trong phòng học đơn sơCô giáo Tòng Thị Minh, người dân tộc Thái, sinh năm 1991 và lớn lên ở mảnh đất Thanh Luông (huyện Điện Biên). Trong gia đình cô giáo, Minh là chị cả của 2 người em. Ngay sau khi tốt nghiệp Trường CĐ Sư phạm tỉnh, tháng 10-2012 cô vào ngành và nhận công tác tại xã Nậm Chua (huyện Nậm Pồ). 

Một năm sau (8-2013) cô có quyết định điều chuyển về Trường Nà Hỳ. Và ở đây, cô giáo Minh đã "bỗng dưng nổi tiếng" khi quay clip cô giáo chui túi nilon qua suối.

Cuộc sống của cô giáo Tòng Thị Minh như thế nào, ở một nơi heo hút như thế? Cuộc sống của những giáo viên cắm bản, miệt mài dạy chữ hằng ngày diễn ra như thế nào? Hãy cũng PV Infonet chứng kiến một ngày dạy học của cô giáo Tòng Thị Minh.

100% học sinh lớp cô giáo Tòng Thị Minh dạy là dân tộc Mông

Phòng học đơn sơ nền đất xung quanh quay lại bằng tre nứa mái cọ. Vào mùa đông gió rét cô giáo phải nhóm lửa giữa lớp để các cháu sưởi ấm

Những nét bút đầu đời với mang nhiều tình cảm và nghị lực của cô giáo Minh dành cho các cháu 
Mọi cố gắng nghị lực của cô giáo Minh vì ánh mắt hồn nhiên ngây thơ của học sinh bản Sam Lang

Lớp học với 100% học sinh dân tộc Mông thường xuyên lớp học vắng hoe. Cô giáo Minh cho biết: "Các cháu ở đây thường theo mẹ lên nương hoặc bố mẹ không muốn con đi học"

Những cử chỉ ân cần chăm sóc các cháu trong lớp học

Bé gái dân tộc Mông hứng nước sạch mang về nhà.


Đối với những trẻ nhỏ khi học xong sẽ được cô giáo đưa về

Cô giáo Tòng Thị Minh cùng clip gây ảnh hưởng lớn đến xã hội trong thời gian qua.

Thái Anh - Hồng Chuyên

Nguồn: Lai Tran Mai

HỌ TỰ LOẠI MÌNH RA KHỎI ĐỘI NGŨ

Thời gian qua, một số cơ quan truyền thông và địa chỉ trên internet làm rùm beng việc một vài cá nhân xin ra khỏi Ðảng Cộng sản Việt Nam. "Tại sao họ lại làm rùm beng như thế?", đó là câu hỏi mà tác giả Hồ Ngọc Thắng phân tích trong bài viết gửi tới Báo Nhân Dân. Xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo...


Sống ở nước ngoài nhưng hằng ngày tôi vẫn luôn luôn quan tâm tới tình hình trong nước, hầu như tôi không bỏ qua những thông tin nào liên quan đến con người và Tổ quốc Việt Nam, vì ở đó tôi còn anh em, họ hàng và những người bạn thân thiết từ thuở ấu thơ. Cái khó đối với một người sống xa Tổ quốc là luôn phải biết phân biệt thông tin đúng sự thật với thông tin không đúng sự thật, thông tin bị thổi phồng phục vụ ý đồ xấu. Mà trên internet lúc nào cũng tràn ngập thông tin, tin lành mạnh cũng nhiều, và tin không lành mạnh cũng lắm. Gần đây, tôi chú ý tới thông tin được mấy hãng truyền thông ở nước ngoài và một số trang mạng, blog đua nhau nhắc đi nhắc lại rồi bình luận, phỏng vấn với nội dung tiêu cực. Ðó là tin vài cá nhân tuyên bố ra khỏi Ðảng Cộng sản Việt Nam, cả đơn từ của họ cũng được đưa trên in-tơ-nét. Tôi ngạc nhiên vì biết đó là điều hết sức bình thường với mọi đảng chính trị, không có gì là mới mẻ, đặc biệt. Vậy tại sao họ lại làm rùm beng như thế? Tin tức, bình luận của họ và mấy người hùa theo rất giật gân.

Tuy không phải là đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam, nhưng trong thời kỳ trước khi di cư hợp pháp sang châu Âu vì lý do gia đình, tôi tham gia Ðoàn Thanh niên Lao động Việt Nam - nay là Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Qua bạn bè được kết nạp Ðảng, tôi biết thường là tổ chức Ðoàn, Công đoàn cơ sở hoặc đoàn thể giới thiệu thành viên gương mẫu về mọi mặt với Ðảng. Nếu được đồng ý, người đó sẽ dự khóa bồi dưỡng đối tượng Ðảng về lý luận, nghiên cứu Ðiều lệ Ðảng, rồi làm đơn, được đảng viên chính thức giới thiệu. Tại lễ kết nạp, đảng viên mới tuyên thệ suốt đời trung thành với Ðảng và sự nghiệp của Ðảng... Ðó là quy trình nghiêm ngặt, đâu phải làm đơn khoe khoang tôi giỏi lắm là sẽ được kết nạp! Hồi còn học cấp 3, trường tôi có một số học sinh được kết nạp vào Ðảng. Họ là học sinh gương mẫu, có thành tích xuất sắc trong học tập và tu dưỡng đạo đức, tích cực tham gia công việc của trường, xã hội. Ở chiến trường Quảng Trị, một số chiến sĩ trong trung đội của tôi được kết nạp ngay tại mặt trận. Họ là những người dũng cảm, gương mẫu, lập thành tích cao. Cần nhấn mạnh là mọi người đều tình nguyện, không bị ép buộc. Với người Việt Nam, được kết nạp vào Ðảng Cộng sản Việt Nam là một vinh dự. Trở thành đảng viên, họ xác định sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ trong bất kỳ tình huống nào. Một người tin tưởng vào lý tưởng của Ðảng, và vào Ðảng không vì mục đích vụ lợi, sẽ không bao giờ rời hàng ngũ của Ðảng, ngay cả trong giây phút nguy hiểm nhất. Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, đã chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, đạt được các thành tựu trong thời kỳ đổi mới là do có hàng triệu đảng viên mang phẩm chất như vậy. Một người nào đó bị khai trừ khỏi Ðảng sẽ thấy xấu hổ với gia đình, bạn bè, người quen, không "vạch áo cho người xem lưng" và thường phải giấu giếm. Nên điều tôi chú ý là tại sao một số người xin ra khỏi Ðảng lại khoe việc này trên internet như một "thành tích"?

Nhân nói đến việc gia nhập hoặc ra khỏi một đảng chính trị nào đó, xin dẫn lại một số số liệu. Ở phương Tây, một trong những điều lo ngại của các đảng chính trị là quá trình "lão hóa" đảng viên, đó là khi số đảng viên lớn tuổi ngày càng nhiều thêm, rồi số đảng viên bị khai trừ hay rời bỏ hàng ngũ tăng lên, mà đảng viên mới gia nhập không đủ để bù đắp về số lượng. Ở CHLB Ðức, một thí dụ về sự thăng trầm số lượng đảng viên là đảng Cơ đốc giáo Ðức (CDU) hiện nay do bà Thủ tướng A.Merkel làm Chủ tịch. Trong đợt bầu cử Quốc hội CHLB Ðức hôm 22-9-2013, đảng này thu thắng lợi rất lớn. So với các đảng khác, CDU có được số phiếu cử tri nhiều nhất để thành lập chính phủ liên minh với đảng Dân chủ xã hội Ðức (SPD), đảng Liên minh xã hội Cơ đốc giáo (CSU). Nhưng trong 12 tháng vừa qua CDU lại mất 8.000 đảng viên. Thời hoàng kim về số lượng đảng viên của CDU là hồi đầu những năm 90 thế kỷ trước. Lúc đó CDU có tới 750.000 đảng viên, cuối năm 2008 còn 530.755, tháng 5-2011 còn 499.646 đảng viên; hiện nay CDU có 468.329 đảng viên. Dù mấy năm qua CDU sút kém về số lượng đảng viên (281.671 người) nhưng không ai nói đảng này đang tan rã. Vừa qua, vì tranh luận liên quan tới việc chọn đảng viên của CDU làm ứng cử viên bầu vào Quốc hội CHLB Ðức, một đảng viên quan trọng của CDU đã bỏ đảng, đó là ông Siegfried Kauder. Từ tháng 11-2009 tới tháng 10-2013, ông là Chủ tịch Ủy ban Tư pháp của Quốc hội CHLB Ðức. Ai quan tâm đến chính trị, đều biết ông là em trai một chính trị gia nổi tiếng của CDU - ông Volker Kauder. Ông Volker Kauder là đại biểu Quốc hội CHLB Ðức từ năm 1990, từ năm 2005 đến nay ông là Chủ tịch khối CDU/CSU trong Quốc hội CHLB Ðức. Tuy là anh em ruột, song trong quá trình hoạt động chính trị, họ lại không tìm được một con đường chung để phấn đấu vì sự nghiệp của cùng một đảng.

Ðảng lớn nhất ở CHLB Ðức là đảng Dân chủ xã hội Ðức (SPD) cũng không tránh khỏi tình trạng suy giảm số lượng đảng viên. Năm 1977, đảng này có tới một triệu đảng viên, nhưng sang những năm 80 của thế kỷ trước còn 900.000 đảng viên. Trong những năm sau đó, SPD mất tới 400.000 đảng viên. Tháng 11-2013, SPD chỉ còn 474.820 đảng viên. Vừa qua, vì bất đồng quan điểm mà một nhân vật chủ chốt của đảng này đã rời khỏi đảng, đó là ông Wolfgang Clement. Từ năm 1998 đến năm 2002, ông là Thủ hiến tiểu bang Nodrhein-Westfalen có số dân đông nhất với 17,6 triệu người, rồi làm Bộ trưởng Liên bang phụ trách kinh tế và việc làm (nhiệm kỳ từ năm 2002 đến năm 2005). Một trong các điểm ông tranh cãi gay gắt với đảng của mình là SPD muốn đưa ra quy định pháp lý về mức lương tối thiểu cho người lao động. Tuy thuộc vào nhóm thiểu số, nhưng ông không chấp nhận ý kiến của đa số đảng viên. Có một điều thú vị là quy định về mức lương tối thiểu cho người lao động không những đã được thông qua trong nghị quyết của SPD, mà còn được ghi vào thỏa thuận mới đây giữa SPD và CDU, CSU để thành lập Chính phủ liên minh.

Ở quốc gia khác của châu Âu, thí dụ Vương quốc Anh, đảng cầm quyền hiện nay là Ðảng Bảo thủ, thành lập năm 1834, cũng có sự sụt giảm về số lượng đảng viên. Năm 1980, đảng này có 400.000 đảng viên, nhưng đến năm 2012 còn 130.000 đảng viên. Tuy giảm tới hai phần ba đảng viên, nhưng không có ai, kể cả phe đối lập ở Anh, cho rằng là Ðảng Bảo thủ đang tan rã. Một sự kiện mới đây ở Hoa Kỳ đã làm Tổng thống Obama và Ðảng Dân chủ phải đau đầu là việc do bất đồng với chính sách của Nhà Trắng, Hạ nghị sĩ thuộc Ðảng Dân chủ Parker Griffith đã rời bỏ hàng ngũ và gia nhập Ðảng Cộng hòa. Griffith ở nhóm bảy người của Ðảng Dân chủ tại Hạ nghị viện Hoa Kỳ không chỉ phản đối chính sách y tế, mà còn bỏ phiếu chống biện pháp kích thích kinh tế của Tổng thống Obama, chống dự luật thay đổi khí hậu mà Chủ tịch Hạ viện thuộc Ðảng Dân chủ Nancy Pelosi nhiệt tình xúc tiến. Nhưng với người dân Hoa Kỳ thì sự kiện này cũng rất bình thường.

Ở các nước kể trên, dư luận chỉ biết số đảng viên ra hoặc vào một đảng nào đó sau khi lãnh đạo đảng công bố, còn thông thường chỉ người đó và cơ sở người đó sinh hoạt mới biết, không ai làm đơn ra đảng hoặc vào đảng rồi đưa lên in-tơ-nét để quảng cáo. Riêng đảng viên giữ trọng trách của một đảng hay đảng viên là dân biểu của một đảng thì khi ra khỏi đảng sẽ công bố cho dân chúng, cử tri, để họ nắm bắt được xu hướng chính trị mới của người này, như các ông Wolfgang Clement, Parker Griffith đã nhắc tới ở trên. Chỉ với các đảng viên vào hàng "đặc biệt" như họ, báo chí, truyền hình mới đưa tin, phỏng vấn, chủ yếu giúp công chúng sáng tỏ vấn đề, không phải để tôn vinh người xin ra đảng, cũng không phải từ đó tung tin đảng này, đảng khác tan rã đến nơi! Với đảng viên bình thường thì báo chí, truyền hình hầu như không quan tâm. Do đó, việc các cơ quan truyền thông như BBC, VOA, RFI,... quan tâm tới vài ba người xin ra khỏi Ðảng Cộng sản Việt Nam là rất không bình thường, chắc chắn họ có mục đích riêng thiếu thiện chí.

THỜI gian trước, tôi có đọc một số bài, nghe mấy người gần đây xin ra Ðảng trả lời phỏng vấn của BBC, RFA, VOA,... Lúc đó tôi cứ ngỡ họ không phải đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam, bởi nếu là đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam thì không ai viết như thế, nói như thế. Hóa ra không phải. Nên tôi nghĩ chẳng cần làm đơn, họ cũng đã không còn là đảng viên rồi. Việc họ và một số người làm ầm ĩ chỉ để "ghi điểm" với ai đó, hoặc họ cố tình làm rùm beng để làm ảnh hưởng tới uy tín của Ðảng Cộng sản Việt Nam mà thôi. Với bất cứ đảng chính trị nào cũng vậy, chất lượng đảng viên, số lượng đảng viên luôn là mối quan tâm hàng đầu. Nhưng theo tôi, chất lượng đảng viên vẫn là yếu tố quan trọng hơn, vì đường lối và vai trò tổ chức, lãnh đạo của đảng, tác động và ảnh hưởng của đảng với xã hội trước hết phụ thuộc vào sự tín nhiệm của nhân dân đối với từng đảng viên. Vì thế, có thể nói mấy người làm rùm beng chuyện xin ra khỏi Ðảng đã tự đào thải mình, tự loại mình khỏi đội ngũ những người cộng sản chân chính.

HỒ NGỌC THẮNG (CHLB ÐỨC)/Báo Nhân Dân

VĂN CHƯƠNG MẠNG VÀ NHỮNG DẤU HỎI

Từ sự xuất hiện một số tác phẩm văn chương trên internet và sự ra đời của khái niệm "văn học mạng", gần đây có một số ý kiến dự đoán rằng, "văn học mạng" sẽ là xu thế tất yếu của văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, từ diễn biến của các hiện tượng "văn học mạng" có thể thấy, cơ sở bảo đảm cho dự đoán ấy vẫn còn rất xa vời.


Ở Việt Nam, thành quả đầu tiên của "văn học mạng" mới chỉ dừng lại ở phạm vi lý luận, phê bình văn học. Internet đã góp phần kết nối môi trường học thuật trên thế giới với Việt Nam, và giúp các nhà phê bình, lý luận văn học có thể tiếp cận, tiếp nhận, trực tiếp đánh giá các trường phái, lý thuyết, lý luận phê bình văn học, nghệ thuật đang thịnh hành trên thế giới. Ðã qua thời kỳ các nhà phê bình, lý luận văn học Việt Nam phải trăn trở vì chỉ được tiếp nhận các lý thuyết nghiên cứu, phê bình một cách muộn mằn. Hiện tại, giới lý luận, phê bình đã có thể so sánh, có cái nhìn toàn diện hơn về lý luận, phê bình văn học của các nước khác, cũng như nhận định các khuynh hướng có thể ra đời của văn học nước nhà và thế giới ở tương lai gần. Khi chưa có điều kiện xuất bản, đã có một số công trình dịch thuật lý luận văn học được một số nhà nghiên cứu, phê bình đăng tải trên internet và giúp người yêu văn học tiếp xúc với tư liệu. Cũng từ đó, dường như không ít nhà phê bình văn học đã tìm được "công cụ" còn thiếu cho công việc của họ, đó là internet. Với một số người, internet là nơi họ đối thoại về phê bình văn học cũng như kiểm định suy nghĩ của mình với "người đọc lý tưởng" khác và "lý luận, phê bình văn học mạng" dường như đã bắt đầu định hình hướng đi? Tuy nhiên, không phải nhà phê bình nào cũng giữ được sự tỉnh táo và luôn ước muốn truy cầu các giá trị chân - thiện - mỹ. Vì có nhà phê bình viết tiểu luận như chỉ để khoe kiến thức, áp đặt những giá trị không thể có cho tác phẩm mà họ tiếp cận. Thậm chí để chứng minh cho lý thuyết, quan điểm mà mình theo đuổi, có người sẵn sàng xuyên tạc tác phẩm theo chiều hướng có lợi cho bài viết. Rồi tác giả khác lại sử dụng phê bình để tán dương tác phẩm phi giá trị nghệ thuật, phi giá trị đạo đức, thay vì lẽ ra cần giúp nghệ sĩ nào đó có xu hướng tinh thần mông lung, hoặc bị tha hóa, tìm đến với con đường đúng. Bằng cách mớm đặt suy nghĩ phù phiếm dưới cái vỏ hoa mỹ, cao đạo, hình như các "anh hùng bàn phím" này đang ngấm ngầm khiêu khích, kích động một số nhà văn, nhà thơ vốn chứa sẵn "cái tôi" ảo tưởng về tài năng của mình thành người quá khích, và gây nguy hiểm cho xã hội.

Có một điều là trong khi lý luận, phê bình văn học đã đặt được một số dấu ấn trên internet, thì sáng tác văn chương trên mạng vẫn cần thêm thời gian để khẳng định. Thực tế của sự tồn tại các tác phẩm được coi là văn chương trên mạng cho thấy dường như chỉ có "văn chương thị dân" (định nghĩa do một số nhà phê bình định danh cho sáng tác trên mạng) phục vụ nhu cầu giải trí và sự tò mò của một nhóm độc giả nhất định là vẫn "sống khỏe". Dù vậy, nhìn chung các tác phẩm này vẫn chưa có khả năng cạnh tranh sòng phẳng với một số tác phẩm ngoại nhập. Như với truyện Ngôn tình chẳng hạn, một số trường hợp có vẻ là hấp dẫn người đọc thì vẫn không giấu được tình trạng rập khuôn, "mì ăn liền", chưa thấy tác giả có khả năng sáng tạo dồi dào. Trào lưu viết truyện ngắn, viết tiểu thuyết như một tập "nhật ký mạng" lúc đầu được một số độc giả đón đợi, giờ đây như trở thành một "món ăn" khá nhàm chán. Ðáng tiếc là tác phẩm kiểu này vẫn ra đời, và càng ngày càng cho thấy tác giả viết như không cần sáng tạo, thiếu ngôn từ độc đáo, thiếu dụng công, và nổi lên là tình trạng "đạo văn" dưới các hình thức tinh vi.

Dẫu sao thì internet vẫn chưa phải là mảnh đất lành cho các sáng tác có đầu tư về mặt tư tưởng - nghệ thuật, nếu không nói nó còn tạo ra sự lười nhác, bất cẩn khi tác giả viết rồi trực tiếp đưa lên mạng mà không tự biên tập (chí ít về câu chữ), hay nhờ đồng nghiệp đọc giúp. Rất ít người viết lựa chọn internet như một phương tiện đưa sáng tác đến với độc giả; cho dù có tác giả quyết định sáng tác tiểu thuyết trên internet, và lựa chọn "ngôn ngữ mạng" là một trong các ngôn ngữ chính trong tiểu thuyết của mình. Trên một số website được cho là ủng hộ "văn học ngoại biên, văn chương xuyên biên giới" tình hình có vẻ sôi động hơn về số tác phẩm, tác giả gửi bài. Nhưng giá trị đích thực của các tác phẩm này vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Ðã có không ít sáng tác thơ ca được người ta tán tụng là "ngoại biên" thực chất chỉ là một văn bản liên tục cách dòng với ý tứ thô thiển, lời lẽ tục tĩu nhằm xuyên tạc, bôi nhọ văn hóa và xã hội, tạo nên những hình tượng méo mó. Với định danh "ngoại biên", mục đích của họ như chỉ để lao vào một thế giới hư danh, với các lợi ích phù phiếm hoặc tư lợi chính trị, yêu sách cá nhân chứ không phải do nhu cầu vì sự sống của văn chương, như họ hô hào.

Vài năm gần đây, một số nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận, phê bình như đang nhầm tưởng vì ngỡ internet là "thế giới lý tưởng" cho sáng tác. Về "văn chương mạng thuần túy", một nhà thơ định nghĩa đó là văn chương của "tác giả chỉ muốn xuất hiện trên mạng. Họ sống đời sống văn chương của mạng, viết trên mạng, vận dụng ưu thế kĩ thuật của internet, xử lý thông tin trên mạng, tương tác trên mạng, tồn tại trên mạng, buồn vui trên mạng, hy vọng hay thất vọng cũng trên mạng...". Ðịnh nghĩa này, suy cho cùng chỉ là một định nghĩa không tưởng, xét trên một số phương diện. Dẫu sinh động hoặc hấp dẫn đến thế nào thì internet vẫn không thể tách khỏi đời sống, không phải là một thế giới khác mà chúng ta quen gọi là "thế giới ảo", như trong các phim khoa học viễn tưởng, để phân biệt với cuộc sống thực. Trước sau với văn chương, internet vẫn chỉ là một phương tiện truyền thông hiện đại, một công cụ giao tiếp thông tin linh hoạt, nhanh nhạy giữa nhà văn và bạn đọc. Còn việc lựa chọn bảo vệ hoặc công khai danh tính có lẽ lại là một vấn đề khác chứ không chỉ là đặc trưng riêng của "văn học mạng".

Một nhầm lẫn khác mà một số người sáng tác văn chương trên mạng đang lầm tưởng là quá trình "đồng sáng tác" giữa người viết và bạn đọc, coi đó là sự triệt tiêu dần "cái tôi" của nhà văn để đem một tác phẩm văn chương mẫu mực đến với số đông. Người đưa ra định nghĩa này cho rằng, văn chương mạng khác văn chương chính thống ở chỗ nó luôn trong quá trình vận động dang dở. Hiểu như vậy, cũng là sản phẩm của cái nhìn có phần phiến diện. Không chỉ đến khi có internet, nhà văn mới có quá trình giao lưu với bạn đọc để "đi tìm nhân vật" cũng như "con đường" cho "đứa con tinh thần" của mình. Trên thực tế, quá trình giao lưu giữa nhà văn với độc giả đâu chỉ diễn ra khi có internet. Ian Fleming, cha đẻ bộ truyện trinh thám nổi tiếng về điệp viên James Bond từng thừa nhận: Ông đã có nhiều ý tưởng mới cho anh chàng có bí danh 007 này sau khi nhận được góp ý thư từ của những bạn đọc. Trước Fleming rất lâu, Tolstoy cũng đã từng đăng Anna Karenina thành truyện dài kỳ trên báo trước khi ấn bản tác phẩm nhưng kiên quyết không thay đổi số phận của nữ nhân vật chính bất chấp thư yêu cầu độc giả để dẫn đến kết cục bi thảm trong tiểu thuyết như chúng ta đã biết. Như vậy, trước sau dù độc giả có thể can thiệp một phần nào đó vào tác phẩm, tác giả vẫn là người duy nhất có quyền định đoạt số phận "đứa con tinh thần" của mình ra sao, bất chấp lời đăng đàn xin lỗi của họ đối với độc giả, trường hợp gần đây nhất là J.K.Rowling với bộ truyện Harry Potter nổi đình đám. Còn ý kiến khác cho rằng, nhà văn hòa mình vào với bạn đọc là tạo ra một hình thức văn học dân gian mới, thì hoàn toàn là nhận định phi thực tế, đi ngược với sự vận động của văn học. Thử hỏi ở Việt Nam, chúng ta đã thu được bao nhiêu giá trị đích thực từ sáng tác văn học dân gian sau vài nghìn năm so với số tác phẩm văn chương thành văn của thế kỷ 20, 21 cộng lại? Nhân nhắc tới văn học dân gian, bài học của các nhà văn thích sáng tác như vậy làm liên tưởng tới trường hợp người "đẽo cày giữa đường"!

INTERNET đã tạo thêm cơ hội để tác phẩm đến với người đọc một cách nhanh chóng, rút ngắn thời gian, mở rộng không gian trao đổi của nhà văn đối với xã hội. Nhưng điều quyết định vẫn là tài năng, là đạo đức nghề nghiệp, và yêu cầu sáng tác vẫn phải là: viết cho ai, viết để làm gì, viết như thế nào và sau cùng vẫn phải hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Dù trên internet, thì tác phẩm chỉ được coi là tác phẩm văn chương khi đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu về tư tưởng - nghệ thuật. Internet không thể biến bộ óc bất tài trở thành nhà văn, nhà lý luận, phê bình, hay biến các sản phẩm "phản văn chương" thành nghệ thuật. Có chăng là với internet, trong một số trường hợp, chỉ là liều thuốc an thần an ủi người hư danh, thích sống trong ảo vọng được cưng chiều, ca ngợi, bợ đỡ của những cá nhân có xu hướng tinh thần tương tự. Vì vậy trước khi nghĩ tới việc các trang web, diễn đàn có thể "nuôi sống" "nhà văn mạng" khiến họ yên tâm sáng tác, tạo ra một kênh sách điện tử, truyện điện tử cạnh tranh với thị trường sách in (xa hơn là viễn cảnh một mạng văn học thay thế hoàn toàn văn học chính thống!), các nhà phê bình, lý luận cũng như nhà văn, nhà thơ hãy cố gắng rèn luyện tài năng, đạo đức của mình và tạo ra mọi cơ hội có thể để nghệ thuật đích thực đến được với người đọc.

VIỆT QUANG/Nhân dân Newspaper