Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014

BÁC HỒ ĐÃ NÓI GÌ VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO?

Bác Hồ đã nói gì về chủ quyền biển đảo?

LTS: Nhân kỷ niệm 124 năm ngày sinh Hồ Chủ tịch, Báo Giao thông xin giới thiệu bài viết hết sức có giá trị của tác giả Nguyễn Thị Thắng - cán bộ bảo tàng Hồ Chí Minh. Trong những ngày Trung Quốc đang ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển Việt Nam, bài viết sẽ đem lại cho người đọc nhiều vấn đề đáng để suy ngẫm.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến biển đảo và dành nhiều tình cảm cho nhân dân vùng biển đảo và lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ biển đảo của Tổ Quốc. Sự quan tâm và tình cảm đó được thể hiện qua từng bài viết, từng lời căn dặn của Người khi đến thăm các địa phương hay các đơn vị Hải quân. Trong 15 tập sách Hồ Chí Minh toàn tập do Nxb Chính trị Quốc gia- Sự thật xuất bản năm 2011 đã lưu lại hàng trăm bức thư, bài viết, bài nói chuyện của Hồ Chí Minh dành cho quân dân vùng biển.

Nhiều lần đưa bạn bè quốc tế đến thăm biển đảo Việt Nam

Ngay từ những ngày đầu Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, Người đã chọn phương tiện đường thủy. Đường biển là nhanh nhất và duy nhất lúc đó có thể giúp Người thực hiện ước mơ của mình. Nhờ việc “làm công” trên những con tầu buôn nước ngoài, Người đã đi năm châu, bốn biển để tiếp thu văn minh thế giới mỗi khi tầu cập bến và đã tìm được con đường cứu nước cho dân tộc. Đến mỗi quốc gia, Người đều có cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên của biển rất khác nhau, nhưng lúc nào Người cũng tự hào về bờ biển Việt Nam - Tổ quốc thân yêu của mình.

Biển đảo là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam, có tầm quan trọng đặc biệt trong xây dựng và phát triển đất nước. Bởi vậy, hơn ai hết Hồ Chí Minh không những hiểu tầm quan trọng của biển đảo mà Người còn có tầm nhìn và tư duy chiến lược về vấn đề khẳng định chủ quyền, biển đảo Tổ quốc. 

Ngày 18/10/1946, sau chuyến thăm nước Cộng hòa Pháp trở về nước trên tàu Đuymông Đuyếcvin tại Vịnh Cam Ranh (Nha Trang), Hồ Chí Minh hội kiến với Cao ủy Pháp D’Argenlieu. Khi D’Argenlieu nói: “Chủ tịch thật quen với biển cả, có lẽ xin tặng Người danh hiệu “Người thủy thủ nhỏ” như quân đội Pháp đã yêu quí mến tặng Napoleon cái tên “Người đội trưởng nhỏ”. Hồ Chí Minh đáp: “Phải, người thủy thủ nhỏ của Hải quân Việt Nam”. Với tài ứng phó, dí dỏm thông minh, Người đã khẳng định chủ quyền dân tộc nói chung và chủ quyền biển đảo nói riêng.

Hồ Chí Minh đã nhiều lần đưa những bạn bè quốc tế đến thăm nhiều biển đảo Việt Nam như một cách giới thiệu vẻ đẹp của đất nước mình với thế giới và đồng thời khẳng định chủ quyền vùng biển đảo Tổ quốc. Tháng 10/1957, khi đến thăm Quảng Ninh, đứng trước vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long Người nói: “Cảnh đẹp một người không thể truyền lại cho nhiều người. Tất cả các chú phải cùng Bác thưởng thức”.

Lần khác, khi đến thăm Quảng Ninh, Hồ Chí Minh hỏi đồng chí Chủ tịch tỉnh Quảng Ninh: “Chú có muốn làm giàu kiếm nhiều đô la không?” Vị lãnh đạo tỉnh còn chưa kịp hiểu ý, thì Người đã nói tiếp: “Chú dùng trực thăng, sáng chở khách ra đảo chơi, tối chở họ về thì tha hồ mà hốt bạc”. 

Cách chúng ta hơn nửa thế kỷ, Người đã nhìn thấy vai trò kinh tế biển đảo thật sớm của Vịnh Hạ Long và cách thu được lợi nhuận từ “ngành công nghiệp không khói”. Người đã nhiều lần thăm đảo Cô Tô và đây là nơi duy nhất và đầu tiên đồng ý cho phép dựng tượng đài khi Người còn sống. Tượng đài Hồ Chí Minh đứng uy nghiêm, lưng tựa vào núi, tay phải giơ cao vẫy chào, mắt nhìn ra biển Đông. Việc Hồ Chí Minh đồng ý xây tượng đài mình trên đảo Cô Tô có lẽ cũng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược về khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc.

Ngày 10/4/1956, khi nói chuyện tai Hội nghị cán bộ cải cách miền biển, Hồ Chí Minh đã nói: “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không? Kẻ gian tế nó sẽ vào chỗ nào trước? Nó vào ở cửa trước. Vì vậy ta phải giáo dục cho đồng bào biết bảo vệ bờ biển. Vì bọn địch thường thả bọn mật thám, gián điệp vào tìm chỗ nấp ở miền biển. Nếu để nó lọt vào, thì người bị thiệt hại trước là đồng bào miền biển. Nếu mình không lo bảo vệ miền biển, thì đánh cá, làm muối cũng không yên. Cho nên một nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ bờ biển. Đồng bào miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc” (Ngày 31/3/1959, Hồ Chí Minh đến thăm làng cá Cát Bà (Hải Phòng). 

Bác Hồ trong chuyến ra đảo Cô Tô

Khi nói chuyện với bà con ngư dân ở đây, Người khẳng định: “Biển bạc của ta do dân ta làm chủ... cán bộ phải lo cho đời sống của nhân dân”. Theo Người, “làm chủ” là bảo vệ và khai thác các nguồn lợi từ biển, làm chủ tiềm năng của biển để phục vụ cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và nâng cao đời sống cho nhân dân. Vì quan tâm nhiều về biển đảo quê hương nên đã nhiều lần Hồ Chí Minh đến thăm nhân dân các địa phương: Đồ Sơn (Hải Phòng), Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Sầm Sơn (Thanh Hóa), Quảng Bình. Người đã tới các đảo: Đảo Tuần Châu, Đảo Hòn Rồng, Đảo Cồn Cỏ, Đảo Cô Tô, Đảo Vạn Hoa, Đảo Bạch Long Vĩ… Hồ Chí Minh đã dành tình cảm đến thăm và chúc Tết chiến sĩ, bà con ngư dân miền biển. Hình ảnh của Hồ Chí Minh như một ngư dân thực thụ cùng kéo lưới với bà con vùng biển Sầm Sơn Thanh Hóa làm chúng ta vô cùng xúc động. Người cũng đã cùng bà con ở đảo Cô Tô thu hoạch khoai lang…

Hồ Chí Minh đã tặng huy hiệu của Người cho nhiều tấm gương ưu tú của quân dân biển đảo đã luôn bám biển ra khơi để sản xuất và canh giữ biển đảo Tổ quốc. Sự quan tâm của Người đã là nguồn động viên để quân dân vùng biển vượt qua khó khăn để xây dựng và bảo vệ quê hương.

Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và dành tình cảm đến lực lượng vũ trang bảo vệ chủ quyền biển đảo nhất là Hải quân. Khi đến thăm các đơn vị Hải quân, Người tâm sự: “Là chiến sĩ Hải quân, các chú phải biết yêu quí đảo như nhà mình, chịu khó cải tạo xây dựng thành những mảnh đất vừa giầu, vừa đẹp, vừa có lợi cho mình, vừa có ích cho đất nước”. 

Ngày 16/3/1961, Hồ Chí Minh cùng bà Đặng Dĩnh Siêu, trưởng đoàn Phụ nữ Trung Quốc đi thăm Hải Phòng, Vịnh Hạ Long và thăm đơn vị Hải quân Việt Nam. Người đã căn dặn: “Bờ biển nước ta có vị trí rất quan trọng. Vì vậy nhiệm vụ của Hải quân trước mắt cũng như lâu dài rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Phải biết tìm cách đánh phù hợp với điều kiện con người, địa hình bờ biển nước ta và vũ khí trang bị mình có. Hải quân ta phải học tập kinh nghiệm chiến đấu hiện đại nhưng không được quên truyền thống đánh giặc xa xưa của tổ tiên” (Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử.Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2008.T.8, tr:46)

Khi cùng các cán bộ, chiến sĩ quân chủng hải quân vào thăm Hang Đầu Gỗ, một “công binh xưởng” xưa kia quân của Trần Hưng Đạo làm cọc cắm trên sông Bạch Đằng chống quân Nguyên. Hồ Chí Minh xúc động nói: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.

Tổ chức được dân, đoàn kết được dân thì việc gì cũng làm được

Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng là biện pháp hữu hiệu góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ. Điều này cũng nằm trong chính sách đối ngoại chung của Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: Việt Nam muốn làm bạn với các nước dân chủ, không muốn gây thù oán với bất cứ ai.

Hồ Chí Minh sớm quan tâm đến vấn đề xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng. Người cho rằng việc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng không những làm triệt tiêu các mầm mống, điều kiện có thể nảy sinh các vi phạm chủ quyền biên giới của nhau, củng cố vững chắc “phiên dậu”; Bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới “từ xa” mà còn tạo cơ sở, điều kiện xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trong nhiều bài viết, bài nói, Người hay sử dụng các cụm từ “đặc biệt”, “lâu đời”, “khăng khít”, “như anh em ruột thịt”, “như răng với môi”… để nói về quan hệ với các nước chung đường biên giới.

Bác Hồ trong chuyến ra đảo Titop

Chúng ta hãy tự hào với “Đoàn tàu không số” của “Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Quân dân ta đã kiên cường, dũng cảm, sáng tạo mở tuyến, vận chuyển chi viện cho miền Nam, giải phóng các đảo và quần đảo Trường Sa, góp phần giành thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

“Đường Hồ Chí Minh trên biển” đã trở thành huyền thoại: Đó chính là việc huy động được lòng dân. Có một trận tuyến lòng dân đưa đón những con tầu không số. Chúng ta tự hào và nói với mọi thế lực xâm lược: Có một cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng một cuộc chiến tranh hiện đại đầy đủ theo đúng nghĩa trên biển Việt Nam trong những năm giữa thế kỷ XX. Chiến tranh hiện đại hôm nay vẫn chưa bỏ qua được những kinh nghiệm lịch sử này. Trước tình hình hòa bình, ổn định Biển Đông đang bị đe dọa nghiêm trọng. Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam hãy đọc lại Hồ Chí Minh để làm tốt hơn nữa những công việc hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy nhiều lời chỉ dẫn của Người. 

Trong ngày thành lập lực lượng Công an vũ trang - nay là Bộ đội Biên Phòng (3/1959) Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chống bọn xâm lược và bọn phá hoại là công việc của bộ đội, của công an nói riêng và toàn dân nói chung; Làm nhiệm vụ mà quân đội và công an phải dựa vào dân mới hoàn thành tốt…Khi tổ chức được dân, đoàn kết được dân thì việc gì cũng làm được” (Hồ Chí Minh toàn tập.Nxb.CTQG,2011, T12,tr:154). 

Các chiến sỹ và nhân dân trên các hải đảo Việt Nam hãy mãi ghi lời nói của Hồ Chí Minh năm 1961: “Thủ đô Hà Nội tuy cách xa các đảo, nhưng Đảng và Chính phủ luôn luôn quan tâm đến đồng bào các đảo và mong đồng bào đoàn kết cố gắng và tiến bộ”’ (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia- Sự thật. 2011,T.10, tr:309). Chúng ta hãy bình tĩnh, đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới, nhất định chúng ta sẽ giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Phạm Thị Thắng

Bài phát biểu của đ/c Lê Duẩn năm 1979: VỀ BỌN BÀNH TRƯỚNG BẮC KINH

Mô tả: Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam.


Nguồn: Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Tài liệu do Christopher Goscha có được và dịch cho CWIHP.

Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ, không đế quốc nào dám đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ phản động Trung Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại, thì họ sẽ tấn công chúng ta như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).

Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc, thì các tỉnh [Bắc Trung Bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất nước. Các tỉnh này tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất. Vì nếu vùng đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, thì tình hình sẽ rất phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là người Việt Nam, thì sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, cả thế giới còn lại đều sợ Mỹ …

Mặc dù Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên chỉ với mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ. Sau khi cuộc chiến kết thúc [ở Triều Tiên] và khi áp lực lên Việt Nam, ông ta (chỗ này hình như nói đến Chu Ân Lai khi đoạn văn sau đó cho thấy vậy) nói rằng, nếu Việt Nam tiếp tục chiến đấu, thì sẽ phải tự lo liệu. Ông ta sẽ không giúp thêm nữa và gây áp lực với chúng ta để ngừng chiến đấu.

Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva, rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất nước ta làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Nam – Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức ép lên chúng ta, không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn]. [Nhưng] họ, [người Trung Quốc,] không thể làm gì để ngăn cản chúng ta.

Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Geneva, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một tình huống rất nguy hiểm [theo cái nhìn của Trung Quốc]! Ngay lập tức, Việt Nam đã phải làm việc với người Mỹ [liên quan đến vấn đề này]. Mao đã bức hiếp chúng ta bằng cách này và chúng ta đã phải làm điều đó.

Sau đó, khi hai tỉnh này đã được chuyển cho Viêng Chăn, những tên phản động [Lào] ngay lập tức bắt giữ Souphanouvong (Chủ tịch Lào từ năm 1975-1986). Lào có hai tiểu đoàn bị bao vây lúc đó. Hơn nữa, họ vẫn chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó, một tiểu đoàn đã có thể thoát khỏi sự [bao vây]. Lúc đó, tôi đưa ra quan điểm của tôi là, Lào phải được phép tiến hành chiến tranh du kích. Tôi mời Trung Quốc đến và thảo luận về vấn đề này với chúng ta. Tôi nói với họ: “Các đồng chí, nếu các đồng chí tiếp tục gây áp lực với Lào bằng cách này, thì lực lượng của họ sẽ hoàn toàn tan rã. Bây giờ họ phải được phép tiến hành chiến tranh du kích“.

Trương Văn Thiên (Zhang Wentian), người trước đó là Tổng Thư ký [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và sử dụng bút danh Lạc Phú, trả lời tôi: “Vâng, các đồng chí, điều các đồng chí nói đúng. Hãy để chúng tôi cho phép tiểu đoàn đó của Lào đảm nhiệm chiến tranh du kích“.

Ngay lập tức, tôi hỏi Trương Văn Thiên: "Các đồng chí, nếu các đồng chí cho phép Lào gánh vác chiến tranh du kích, thì không có gì phải sợ việc phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì làm cho các đồng chí sợ đến nỗi các đồng chí ngăn cản hành động như thế?"

Ông ta [Trương Văn Thiên] đã nói: “Không có gì phải sợ!”

Trương Văn Thiên đã nói thế. Tuy nhiên, Ho Wei, Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam lúc đó, đã ngồi ở đó và nghe điều đã nói. Ngay lập tức, ông ta điện cho Trung Quốc (báo cáo điều Lê Duẩn và Trương Văn Thiên đã nói). Ngay lập tức, Mao trả lời: “Việt Nam không thể phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Việt Nam phải nằm chờ trong một thời gian dài!” Chúng ta rất nghèo. Làm sao chúng ta có thể đánh Mỹ nếu không có Trung Quốc làm căn cứ hậu tập? Nên chúng ta phải nghe theo họ, đúng không?

Tuy nhiên, chúng ta đã không đồng ý. Chúng ta đã bí mật tiếp tục phát triển lực lượng. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam, chúng ta đã ban hành lệnh thành lập lực lượng quần chúng để chống lại lệnh đã được lập và nắm quyền [từ chính phủ Diệm]. Chúng ta đã không chú ý [đến Trung Quốc].

Khi cuộc nổi dậy giành chính quyền bắt đầu, chúng tôi đi Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình đã nói với tôi: “Đồng chí, bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống“. Đó là áp lực mà họ đã áp đặt lên chúng ta.

Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! tôi sẽ làm điều đó. Tôi sẽ chỉ chiến đấu ở mức một trung đội trở xuống“.

Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á. Không có lý do nào khác.

Chúng tôi biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự xâm nhập của quân đội Trung Quốc). Thôi thì cũng được. Nhưng họ quyết định đưa quân vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.

Sau đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ tiếng Việt chỉ miền Nam Việt Nam). Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.

Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.

- Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm quân.

Đến lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đã viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ“. Ông ta gây áp lực với chúng tôi cách này, làm cho chúng tôi bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề hoàn toàn đơn giản. Rất là mệt mỏi mỗi khi tình huống như thế phát sinh [với Trung Quốc].

Chúng tôi quyết định không thực hiện cách đó (nói đến lời khuyên của Hồ Wei không đàm phán với Hoa Kỳ). Chúng tôi phải ngồi xuống ở Paris. Chúng tôi phải làm cho họ (Mỹ) giảm leo thang để đánh bại họ. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã thông báo [với Mỹ]: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông. Nhưng rất nhiều quân lính mà các ông muốn đưa vào Việt Nam, tùy các ông“. Trung Quốc nhất trí điều này và đã gây áp lực với chúng tôi bằng cách đó.

Họ (Trung Quốc) đã trao đổi nhiều với Mỹ và ép buộc chúng ta phục vụ như là một con bài để mặc cả theo cách này. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua trận, ngay lập tức, họ sử dụng Trung Quốc để [tạo điều kiện] rút quân [ở miền Nam Việt Nam]. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận vấn đề này.

- Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta là] giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm bớt thất bại của Mỹ, cũng như cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: “Lúc này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận về vấn đề Việt Nam, do vậy tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí“.

Tôi trả lời: “Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích, nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt. Việt Nam là của tôi (đất nước của tôi), hoàn toàn không phải của các đồng chí. Các đồng chí không có quyền nói [về vấn đề Việt Nam] và các đồng chí không có quyền thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ]. Hôm nay, các đồng chí, chính tôi sẽ nói với các đồng chí điều mà thậm chí tôi chưa hề nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí đã nêu ra vấn đề nghiêm trọng và vì thế tôi phải nói:

- Năm 1954, khi chúng tôi giành chiến thắng tại Điện Biên Phủ, tôi đã ở [tỉnh] Hậu Nghĩa. Bác Hồ đã điện nói với tôi rằng, tôi phải vào miền Nam để tập hợp [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về vấn đề này]. Tôi đi bằng xe tải vào miền Nam. Trên đường đi, đồng bào ra chào đón tôi vì họ nghĩ rằng chúng tôi đã giành chiến thắng. Đau đớn vô cùng! Nhìn đồng bào miền Nam, tôi đã khóc. Vì sau đó, Hoa Kỳ sẽ đến và tàn sát [người dân] một cách khủng khiếp.

Khi vừa tới miền Nam, ngay lập tức, tôi đã điện cho Bác Hồ để xin ở lại [miền Nam] và không trở lại miền Bắc để tôi có thể đánh thêm mười năm nữa hoặc hơn. Đồng chí đã gây khó khăn cho tôi như thế này (muốn nói đến vai trò của Chu Ân Lai trong việc chia cắt Việt Nam tại Geneva năm 1954), đồng chí có biết không“?

Chu Ân Lai nói: “Tôi xin lỗi đồng chí. Tôi đã sai. Điều đó tôi sai” (muốn nói đến sự chia cắt Việt Nam tại Geneva). Sau khi Nixon rời khỏi Trung Quốc, một lần nữa, ông ta (Chu Ân Lai) đến Việt Nam để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay lập tức, tôi nói với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí rồi. Chẳng bao lâu nữa, họ (Hoa Kỳ) sẽ tấn công chúng tôi thậm chí còn mạnh hơn“.

Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai (Mỹ và Trung Quốc) đã thương lượng với nhau để đánh tôi mạnh hơn. Ông ta (Chu Ân Lai) đã không bác bỏ quan điểm này là vô căn cứ và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng đạn cho các đồng chí“.

Sau đó ông ta (Chu Ân Lai) nói (về mối lo ngại âm mưu bí mật Trung – Mỹ): “Không có điều đó“. Tuy nhiên, hai bên đã thảo luận làm thế nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Rõ ràng là như thế.

– Nếu Liên Xô và Trung Quốc đã không mâu thuẫn với nhau, thì Hoa Kỳ không thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đã tấn công. Khi hai [cường quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đã không bị [phe đối lập là khối xã hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và đoàn kết với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức tạp, lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm Trung Quốc cung cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đô la. Liên Xô cũng đã giúp bằng cách này. Nếu chúng ta không thể làm điều đó (đoàn kết và thống nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ rất nguy hiểm.

Mỗi năm tôi đã phải đi Trung Quốc hai lần để nói chuyện với họ (lãnh đạo Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam Việt Nam. Về phía Liên Xô, tôi không phải nói gì cả (về tình hình ở miền Nam Việt Nam). Tôi chỉ nói một cách chung chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đã phải nói rằng cả hai [nước] đang đánh Mỹ. Tôi đã đi một mình. Tôi phải có mặt về vấn đề này. Tôi đã đến đó và nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục đích chính là để xây dựng quan hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam). Chính xác là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp lực với chúng ta để xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô.

Họ đã làm rất căng. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh đã đến và nói với tôi: “Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ [có lẽ là nhân dân tệ] mỗi năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô“.

Tôi không đồng ý điều này. Tôi nói: “Không, chúng ta phải đoàn kết và thống nhất với toàn bộ phe [xã hội chủ nghĩa]“.

Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc] ban hành một tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ý kiến . Anh Trường Chinh và tôi đã đi cùng với một số anh em khác. Trong cuộc thảo luận, họ (Trung Quốc) lắng nghe chúng tôi đến, hình như là điểm thứ 10, nhưng khi đến điểm “không từ bỏ phe xã hội chủ nghĩa”, họ đã không nghe… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về tài liệu của chính tôi, tôi muốn nghe ý kiến ​​của các đồng chí, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm này của các đồng chí“.

Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”

Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!

Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.

Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?

Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.

Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?

Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!

Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!

Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?

Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông. 

Mao hỏi: Có bao nhiêu người? 

Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu! 

Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan! 


Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?“

Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.

Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối đe dọa của Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều, không phải là chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tình hình gần đây sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.

Mười năm trước, tôi đã triệu tập các anh em trong quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu thuẫn với nhau. Đối với Trung Quốc, họ đã bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng này, các đồng chí phải nghiên cứu vấn đề này ngay lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không hiểu ý tôi, nên tôi nói với họ rằng, không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ vẫn thấy khó hiểu. Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không thể nói bằng cách nào khác. Và tôi đã không cho phép những kẻ khác túm lấy tôi.

Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [buổi hợp này] không chỉ đơn giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam đã không đi.

Liên Xô nói: “Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế [hay] là cái gì? Tại sao các đồng chí làm điều này?” Tôi nói: “Tôi hoàn toàn không bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để là người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại Mỹ, thì phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến hội nghị này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng tôi. Các đồng chí, hãy hiểu cho tôi“.

Tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến và tranh luận ​​khác nhau. Chu Ân Lai đồng ý việc hình thành một mặt trận với Liên Xô để chống Mỹ. Một lần, khi tôi đi Liên Xô để dự lễ kỷ niệm quốc gia, tôi có đọc một bức điện Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói rằng: “Bất cứ khi nào có ai đó tấn công Liên Xô, thì Trung Quốc sẽ đứng bên cạnh các bạn“. Đó là vì đã có một hiệp ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc từ thời trước đó (tháng 2 năm 1950).

Ngồi cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta: “Trong bức điện gửi đến Liên Xô gần đây, đồng chí đồng ý thành lập một mặt trận với Liên Xô, nhưng tại sao các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai nói: “Chúng tôi có thể thành lập mặt trận chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan điểm đó. Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [Việt Nam]“. Bành Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Quan điểm này cực kỳ chính xác!” Nhưng khi vấn đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không thể và hủy bỏ nó. Các đồng chí thấy nó phức tạp như thế nào.

Mặc dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan điểm này, ông ta dù sao cũng đồng ý xây dựng một mặt trận và [ông ta] đã giúp Việt Nam rất nhiều. Cám ơn ông ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về những gì đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm. Có lần, ông ta nói với tôi: “Tôi đang làm hết sức mình để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ cho các đồng chí“. Thì ra vậy (tức là Chu Ân Lai đã sử dụng Li Chiang, để giúp người Việt Nam). Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai, điều này sẽ hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi đang mắc nợ ông ta.

Tuy nhiên, không đúng để nói rằng các lãnh đạo khác của Trung Quốc hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân Lai. Họ khác nhau nhiều thứ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất là người có tinh thần Đại Hán và là người muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch Đông. Tất cả các chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông ta.

Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà lãnh đạo hiện tại của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao, [sự thật của vấn đề là] họ đã tấn công chúng ta. Trong quá khứ, Đặng Tiểu Bình đã làm hai điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là, khi chúng ta giành chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, nhiều [lãnh đạo] Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên, dù sao Đặng Tiểu Bình cũng chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, ngay lập tức ông ta đã bị những người khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn, và tôi đã gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng đầu. Khi nói về vấn đề lãnh thổ, gồm cả việc thảo luận về một số hòn đảo, tôi nói: “Hai đất nước chúng ta ở gần nhau, Có một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định rõ ràng. Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng chí, làm ơn đồng ý với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) đồng ý, nhưng sau khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lãnh đạo khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại. 

Nhưng bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên rồi. Bởi vì ông ta muốn cho mọi người thấy rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại, cho nên ông ta đã tấn công Việt Nam mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.


Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: “Các đồng chí định đánh với ai mà giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy?” Tôi nói: “Sau này, các đồng chí sẽ hiểu“. Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là vì mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nếu không có [một mối đe dọa như thế], thì điều này (quân đội thường trực lớn) sẽ không cần. Gần đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta đã không được duy trì một đội quân lớn.

(B) (Ý nghĩa của chữ “B” này trong văn bản gốc không rõ ràng) – Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ. Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm các nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ.


Tôi hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy tôi. Người đầu tiên sợ [Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay lập tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử dụng điều đó làm lý do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng tôi đã nói: “Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam“. Ông ta (Mao) nói: “Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam Việt Nam phải nằm đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời hoặc thậm chí 20 đời kể từ bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ là nguy hiểm“. Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến mức độ đó…

Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiếp tục chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam Việt Nam sẽ không được giải phóng. Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất nước lệ thuộc. Không ai có được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do. Không có được độc lập cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc lập hoàn toàn. Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam …

Engels đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và chính chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước rất khác về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ vì các bạn có hàng triệu người, thì các bạn có thể làm bất cứ điều gì các bạn muốn. Trung Quốc cũng nói đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù tiến lên, thì chúng ta phải rút lui“. Nói cách khác, phòng thủ là chính, và chiến tranh được chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao vây thành thị, trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi… Người Trung Quốc ở thế phòng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu người đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại họ.

Tôi phải lặp lại điều này như thế, vì trước khi Trung Quốc gửi cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ nghĩ rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó chúng ta đã không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].

Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc vì tôi bị bệnh và cần điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đã bị] quân Nhật chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy một chiến binh du kích…

Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đã gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:

- Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?

Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.

- Chú đã thấy gì?

Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút nào.

Tôi hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn khác với họ. Lòng can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao giờ có một chiến lược phòng thủ (ý nói ở thế thủ). Mọi người dân chiến đấu. 

Gần đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm ngàn quân vào xâm chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng dân quân và quân đội trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi bước. Họ không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đã xóa sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là vì chiến lược tấn công của chúng ta.

Đế quốc Mỹ đã đánh với chúng ta trong một cuộc chiến kéo dài. Họ rất mạnh, nhưng họ đã thua. Nhưng có một yếu tố đặc biệt, đó là những mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì điều này,] họ đã tấn công chúng ta mạnh như thế này.

… Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã chiến đấu rất quyết liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích lũy hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào để đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã phải chiến đấu trong một thời gian dài để làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm được điều đó, Trung Quốc thì không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong Tre (Quảng Trị?), ngay lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.

Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai dám làm những điều các đồng chí đã làm“.

… Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi: “Nếu tôi biết trước cái cách mà các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý Trường chinh“.

Vạn lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc hành quân có 300.000 quân, đến cuối Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000 quân. 270.000 người đã chết. Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí biết chúng ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng ta chiến đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng … Tuy nhiên, sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống lại Trung Quốc, không rõ họ có giành được chiến thắng như thế này không (như Việt Nam).

… Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.

Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột với nhau, Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông đã nói với Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, thì tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà các ông muốn. Tùy các ông“.

… Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất mạnh, một nước với ý đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu với một cuộc xâm lược Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai trò lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ của mình, và lần này Việt Nam xác định không cho phép họ bành trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng mình và làm như vậy cũng là để bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để Trung Quốc thực hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung Quốc] chỉ là vòng một. Hiện họ vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng …

Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả trong rừng. Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài liên quan đến vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 – 600.000 binh lính để đánh chúng ta, nhưng họ đã không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương thực cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng họ phải để lại một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.

Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta biết cách đánh. Nếu họ đưa 1 triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.

Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn công quyết liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến Leningrad, họ không thể vào được. Với thành phố, người dân và các công trình phòng thủ, không thể nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi người. Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) thì giống như thế. Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.

Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền tuyến. Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây kết thúc, chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu phương trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh … Hậu phương trực tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách … Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để giánh một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải là một người lính thực và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.

- Bây giờ đã đánh xong một trận rồi, chúng ta không nên chủ quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai. Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng chúng ta cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần phải có cả hai điều này.

- Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam“! Thời đại hiện nay không giống như thời xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói Trung Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn độc lập, tự do.

Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với thời xưa. Thời đó, người dân chưa nhận thức rõ những điều này. Do đó, câu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý tưởng của thời đại hiện nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do … Việt Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.

- Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong Bộ Chính trị đã thảo luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đã đồng ý đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ý. Chúng ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu chúng ta không sợ ba điều này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đã thực hiện trong Bộ Chính trị hồi đó.

Mặc dù Bộ Chính trị đã gặp và tổ chức các buổi thảo luận như thế và mọi người đồng lòng, sau này có một người đã nói với một đồng chí điều mà tôi đã nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ Chính trị, hỏi lý do gì mà Anh Ba một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta muốn đánh Mỹ, thì chúng ta không nên sợ Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải nói như vậy nữa?

Lúc đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đã bị nghi là có cảm tình với Trung Quốc, đứng lên và nói: “Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa Bác Hồ, lời phát biểu của Anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ý nói không cần phải sợ Trung Quốc), vì họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ chặn chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không cho chúng ta đánh…“

Trong khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt Nam, Đặng Tiểu Bình quy định rằng tôi chỉ có thể đánh ở mức trung đội trở xuống và không được đánh ở mức cao hơn. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) nói: “Ở miền Nam, do các ông phạm sai lầm về việc đã khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống, không được đánh ở mức cao hơn“. Họ gây áp lực lên chúng ta như thế.

- Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta cũng không sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng ta. Chúng ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.

Chúng ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi vì đất nước chúng ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được. Nếu không, thì sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.

- Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách nào làm nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng ta: xâm lược và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và làm cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn. Vì những lý do này, để chống lại Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà còn làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta không nên là một lực lượng lãng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực lượng sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập tức. Khi không có kẻ thù, thì họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác. Dĩ nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới …

- Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh vác một nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng lúc bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản động Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều này. Việt Nam có 50 triệu người rồi. Việt Nam có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có phe [XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta. Rõ ràng là chúng ta có thể làm điều này.

… Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta, trong nhân dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả. Nhưng chúng ta phải duy trì các mối quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta.

Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế giới này, người đã bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại Trung Quốc, nhưng chỉ có mình tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng ta biết rằng người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không cảm thấy xấu hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lãnh đạo (Trung Quốc) là một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói bè lũ phản động Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần nữa một cách nghiêm túc như thế.

Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối quan hệ với Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong 100 năm, chủ nghĩa xã hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.

Hiện nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ nữa. Nhưng cách đây năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc có thể đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng chí [này] không có kiến ​​thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã và đang tấn công chúng ta [cách đây] mười năm hoặc hơn. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên [về cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979].

Ngọc Thu, dịch từ: Wilson Center.

SAI LẦM TO LỚN VỀ CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG

Sai lầm to lớn về chiến lược của Trung Quốc ở biển Đông

The National Interest
Tác giả: Ha Anh Tuan
Người dịch: Bút Lông Kim

Ngày 1 tháng 5, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan dầu bản địa khổng lồ, Hai Yang Shi You (HYSY) 981, về phía nam ở Biển Đông. Vị trí mới, chỉ cách bờ biển Việt Nam 120 dặm, hoàn toàn nằm bên trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Để hỗ trợ và bảo vệ cấu trúc khoan dầu này, Trung Quốc đã phái hơn 80 tàu lớn, con số còn tiếp tục tăng lên. Những tàu nước ngoài đã được cảnh báo để tránh xa giàn khoan ấy vì sự an ninh và an toàn.

Hành động này phô bày một bước leo thang mới và nguy hiểm của Trung Quốc. Kể từ năm 2007, Bắc Kinh ngày càng quyết đoán và xâm lược trong việc bảo vệ tham vọng lãnh thổ của mình ở Biển Đông. Nhà cầm quyền Trung Quốc đã tấn công và bắt giữ những ngư dân nước ngoài đang làm ăn trong những ngư trường truyền thống trong khu vực. Những công ty dầu khí đã bị áp lực phải rút lui khỏi những hợp đồng với các bên tranh chấp ở Đông Nam Á vì sợ sự trả đũa của Trung Quốc. 

Năm 2009, Bắc Kinh chính thức tuyên bố yêu sách đường chín đoạn đối với hơn 80% Biển Đông. Hành động này theo sau sự khẳng định trong năm 2010 rằng Biển Đông là một trong những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Trong năm 2012, Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, mà trung tâm chính quyền địa phương của nó đã được đặt tại đảo Phú Lâm, là một phần của quần đảo Hoàng Sa tranh chấp với Việt Nam. Một đơn vị đồn trú mới được thành lập và đóng quân trên đảo Phú Lâm. Suốt trong giai đoạn này, những năng lực quân sự của Trung Quốc có cải thiện một cách đáng kể, và nó bây giờ có thể tranh đua với Hoa Kỳ, cả trên không lẫn trên biển, ở Biển Đông. 

Sự leo thang mới nhất của Trung Quốc ở Biển Đông tiêu biểu cho một tính toán sai lầm nghiêm trọng của các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc. Họ đã làm nên bốn sai lầm về chiến lược. 

Thứ nhất, diễn biến mới này đã khiến Việt Nam không còn lựa chọn nào khác ngoài phản ứng táo bạo và quyết tâm. Điều 56 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) đã xác định rằng, một quốc gia ven biển có những quyền tối thượng để thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của mình. Do đó, không thể có cách nào diễn giải UNCLOS theo hướng giải thích ý định của Trung Quốc nhằm khoan một giếng dầu hoàn toàn bên trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam. 

Việt Nam, giống như các nước khác, không giải thích rõ ràng quan điểm của mình về những tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Sự nhập nhằng về chiến lược này mang lại cho các quốc gia không gian để thương lượng và để tráo trở. Tuy nhiên , động thái mới nhất của Trung Quốc đã vượt qua lằn ranh mà các nhà lãnh đạo chóp đầu của Việt Nam đặt ra. Hà Nội , do đó, đã phản ứng giận dữ. Phó Thủ tướng Việt Nam kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã gọi Ủy viên quốc vụ viện Dương Khiết Trì của Trung Quốc để phản đối động thái của Trung Quốc và khẳng định rằng Hà Nội sẽ “áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết và phù hợp để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của mình” ở các vùng biển. Cảnh sát biển Việt Nam và những tàu kiểm ngư đã được điều động để ngăn Trung Quốc triển khai giàn khoan. 

Trung Quốc phản công động thái này bằng cách gửi trên 80 tàu lớn để bảo vệ tài sản. Va chạm đã xảy ra giữa tàu của hai bên, dự kiến sẽ còn xảy ra nhiều biến cố nữa. Diễn biến này đã đẩy Việt Nam xa hơn khỏi Trung Quốc và khiến Việt Nam phải tăng cường quan hệ an ninh của mình với các cường quốc khác, như Hoa Kỳ. Nếu Hà Nội cân nhắc việc mở Vịnh Cam Ranh cho sự hiện diện của hải quân Hoa Kỳ, thì Washington sẽ là tắc trách khi khước từ cơ hội. Thật vậy, Washington nhanh chóng đã lên tiếng về vụ việc. Trong một thông cáo báo chí ngày 8 tháng 5 , người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã khẳng định rằng chủ quyền quần đảo Hoàng Sa đang bị tranh chấp, và quyết định của Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu, hộ tống bởi vô số những tàu chiến và tàu chuyên dụng khác, vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, là một quyết định khiêu khích và làm gia tăng căng thẳng. 

Thứ hai, hành động của Trung Quốc đã vi phạm những nguyên tắc của Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông và đào sâu những nghi ngờ giữa các nước trong khu vực về ý định thực sự của họ. Cùng với Việt Nam và Philippines, thì Singapore và Malaysia đang càng lúc lo ngại về hành vi của Trung Quốc trong khu vực. Indonesia, một thời đã duy trì thái độ trung lập nghiêm ngặt đối với tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, thì đã thay đổi hoàn toàn quan điểm của mình, và giờ đang đấu tranh với yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông bởi vì nó thách thức những quyền lợi của Jakarta trong vùng biển Natuna. Trong thực tế, những tàu có vũ trang của Trung Quốc đã chạm trán tàu của Indonesia vài lần trong ít năm qua trong những vùng biển mà Jakarta tuyên bố chủ quyền.

BẮC KINH HUNG HÃN NGUY HIỂM TRÊN BIỂN

Ong Bắp cày: Bài "Nguy hiểm hung hãn của Bắc kinh trên biển" của Tác giả Philip Bowring: Nhất báo Hoa nam, ngày 18/5/2014

Cần nói thêm, bài này tác giả có sự nhầm lẫn về chủ quyền bãi cạn Scarborough mà Phi đang chiếm giữ. Tuy nhiên, để tôn trọng tác giả, Ong Bắp Cày vẫn cho đăng để các bạn tham khảo.
———————————————

Hành vi mặt-đối-mặt hiện tại của Trung Quốc cùng các quốc gia láng giềng ở Biển Đông là hung hăng, kiêu ngạo có mùi vị chủ nghĩa sô vanh và chủ nghĩa vị chủng. Vượt quá mức biểu hiện của niềm tự hào quốc gia, hành vi này đã khiến cho lòng yêu nước có một cái tên xấu. Những người Hồng Kông yêu nước nên nhận ra mặt thật của nó: một mưu đồ nguy hiểm.

Bắc Kinh không chỉ nhe răng bành trướng của mình đến Việt Nam và Philippines, họ đã thành công trong việc chuyển Indonesia từ một vị trí cố gắng hoạt động như một điều phối viên giữa Trung Quốc và các quốc khác quanh Biển Đông sang thành một đối thủ [của Trung Quốc]. Trong những tháng gần đây, Indonesia đã hai lần cáo buộc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên một phần quần đảo Natuna của họ. Không có gì gọi là “sự trỗi dậy hòa bình” khi Trung Quốc chọc tức một anh hàng xóm mà họ nghĩ là yếu ớt với dân số hơn 400 triệu người.

Tất cả tuyên bố chủ quyền trên biển của Trung Quốc được bao bọc trong đường lưỡi bò chín đoạn kéo dài hơn 1,000 hải lý từ bờ biển Quản Đông và Hải Nam đến gần đảo Borneo, một hải đảo cùng chủ quyền của Mã Lai, Indonesia, và Brunei. Đường lưỡi bò chín đoạn này cũng bao gọn hầu như tất cả vùng biển giữa Việt Nam và Philippines. Tuyên bố này bao trùm hơn 90 phần trăm vùng biển mặc dù Trung Quốc (tính cả Đài Loan) chỉ có khoảng 20 phần trăm bờ biển giáp Biển Đông.

Tất cả tuyên bố chủ quyền này được dựa trên cơ sở lịch sử mà trong đó, sự hiện diện của những dân tộc khác cùng lịch sử di chuyển và kinh doanh trên biển trong 2000 năm của họ – trước khi Trung Quốc bắt đầu thám hiểm xuống vùng biển phía Nam và xa hơn nữa – đã được thuận tiện gạt bỏ. Người Indonesia đã đến châu Philippines và biến Madagascar hơn 500 năm trước Trịnh Hòa [nhà hàng hải và thám hiểm người Trung Quốc]. Các dân tộc Đông Nam Á thời đó đã hấp thụ nhiều thứ từ Ấn Độ và thế giới Hồi Giáo hơn từ Trung Quốc.

Trong trường hợp của các vấn đề hiện tại với Việt Nam, được khởi động bởi hành vi mang giàn khoan và tàu bảo vệ vào vùng biển phía Đông tp Đà Nẵng, Trung Quốc có một cái cớ nhỏ vì họ hiện đang có chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, một vị trí gần địa điểm của giàn khoan hơn so với Việt Nam. Tuy nhiên, các quần đảo này từ lâu nay nằm trong sự tranh chấp giữa hai quốc gia, một vấn đề hiện nay đã được xem là đã giải quyết sau khi Trung Quốc cưỡng chiếm năm 1974.

Nhưng khi họ [Trung Quốc] chưa bao giờ thiết lập một khu định cư thực thụ ở Hoàng Sa, lý do đặc quyền kinh tế 200 hải lý mà họ sử dụng để lấn chiếm chủ quyền đặc quyền kinh tế trên biển của Việt Nam trên cơ sở rất yếu kém. Lịch sử cũng cho ta biết bờ biển này là trọng tâm của nền thương mại của vương quốc Chămpa, một đối thủ hàng đầu trong thương mại khu vực kéo dài cả nghìn năm.

Một sự thỏa hiệp hợp lý giữa Trung Quốc và Việt Nam chắc chắn là có thể có được. Mãi Lai và Thái Lan đã tiến đến một thỏa hiệp như vậy trên khu vực nhiều khí đốt giữa họ và Vịnh Thái Lan. Những quốc gia khác trong vùng như Indonesia, Singapore, và Mã Lai đã đem vấn đề chủ quyền biển đảo ra Tòa án Công Lý Quốc tế và đã chấp nhận kết quả phán xét. Nhưng Trung Quốc vẫn không muốn thỏa hiệp hoặc chấp nhận để một trọng tài phán xét. Trong khi đó, hợp tác phát triển là điều bất khả thi vì Trung Quốc luôn đặt điều kiện là phải chấp nhận chủ quyền của họ.

Trong trường hợp bãi cạn ngoài khơi Philipines, Trung Quốc đã dựa trên một kết hợp của lịch sử họ chế ra và việc họ đã đệ đơn đăng ký chủ quyền đầu tiên, một lý do nghèo nàn khi họ không có sự hiện diện liên tục ở đó và khi Philipines đã thừa hưởng chủ quyền theo hiệp ước giữa hai cường quốc phương Tây. Những bãi cạn này và các nơi khác Trung Quốc tuyên bố chủ quyền rõ ràng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philipines và trong vùng biển đi lại lâu nay của các sắc tộc của quốc gia này. Điều này không có gì để chối cãi.

Bãi cạn Scarborough nằm khoảng 200km cách Luzon và 650km cách Trung Quốc. Tuyên bố chủ quyền trên Bãi Trăng Khuyết (Half Moon Shoal) còn vô lý hơn nữa. Đó là rạn san hô nơi Philipines bắt giữ ngư phủ Trung Quốc bị cáo buộc đánh bắt loài rùa biển không lồ, một loài vật đang được bảo vệ. Các cuộc biểu tình giật gân đã từng bùng nổ tại Bắc Kinh. Rạn san hô này nằm 110km cách đảo Palawan, gần 1,500km cách Trung Quốc.

Thực tế về việc tuyên bố vô lý này đã có từ thời kỳ Quốc Dân Đảng thật ra không có. Chuyện các chính phủ trước đây có thể thỉnh thoảng đã triều cống Trung Quốc cũng không có. Đối với những quốc gia giao thương này, việc triều cống là một dạng thuế, cái giá phải trả để giao dịch với Trung Quốc. Điều này không có nghĩa là Trung Quốc có thể tuyên bố chủ quyền đối với họ. Và nếu Trung Quốc có khi đã đóng vai trò đế quốc trong vùng, đó đúng ra là lý do để quan ngại, không phải cơ sở để cho rằng mình là chúa tể của vùng biển phần nhiều thuộc Mã Lai Đa Đảo [Malaysian Sea]. Nếu không thì Thổ Nhĩ Kỳ có thể tuyên bố Ai Cập thuộc về họ và Nga có thể tuyên bố chủ quyền trên khắp vùng Trung Á [Central Asia].

Một Trung Quốc hồi sinh hiện nay muốn thể hiện sức mạnh và cho thấy ai là bá chủ trong vùng – cũng như họ đã từng làm với Việt Nam năm 1979 – và nhắc nhở Hoa Kỳ về những khuyết điểm của họ [Hoa Kỳ]. Nhưng bên cạnh đó cũng có một sự miễn cưỡng cơ bản để đối xử bình đẳng với các láng giềng không phải người Hán của mình, những dân tộc – riêng Việt Nam – với lịch sử và văn hóa riêng của họ, chưa từng chịu ảnh hưởng lớn nào của Trung Quốc.

Lịch sử về sự giả định tính ưu việt của Trung Quốc, đặc biệt đối với những người có màu da sậm hơn, thật là dài. Niềm tin vào thuyết ưu sinh và sự cần thiết phải bảo vệ và phát huy đặc tính đại Hán rất mạnh mẽ trong thời kỳ Cộng Hòa. Nó cũng được nhìn thấy vang dội trong quan điểm và chính sách xã hội của Lý Quang Diệu ở Sing. Niềm tin này từ lâu đã bị loại bỏ ở phương Tây và bị lên án dưới thời Mao Trạch Đông. Nhưng, nó đã được trỗi dậy ở lục địa Trung Hoa, nơi mà một số học giả khó thể chấp nhận rằng con người hiện đại phát xuất và lan rộng từ châu Phi và Trung Quốc theo đó, không phải là một chủng tộc có nguồn gốc độc đáo và riêng biệt của nhân loại.

Philip Bowring là một nhà bình luận báo chí làm việc tại Hồng Kông. nguồn: Beijing’s dangerous arrogance in the South China Sea. http://www.scmp.com/comment/insight-opinion/article/1514360/beijings-dangerous-arrogance-south-china-sea

Người dịch: Hoàng Triết

Lưu ý: cũng có một bản dịch khác do Bút Lông Kim tại đây.

HOA HẬU CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 2011 TRIỆU THỊ HÀ XIN TRẢ LẠI VƯƠNG MIỆN

Hoa hậu các dân tộc Việt Nam 2011 xin trả vương miện

Theo Tri Thức Trực Tuyến 

Hoa hậu Triệu Thị Hà viết đơn từ bỏ danh hiệu với lý do sức khỏe không tốt.

Mới đây, Hoa hậu các dân tộc Việt Nam năm 2011 - Triệu Thị Hà - đã viết đơn xin trả lại vương miện. Lý do được Triệu Thị Hà đưa ra là vì sức khỏe không được tốt, không đủ điều kiện để thực hiện các quy chế của Ban tổ chức và Ban chỉ đạo. "Để đảm bảo sự nghiêm minh của Ban tổ chức, Ban chỉ đạo và Ban giám khảo, kính xin Quý ban chấp thuận và em xin hứa sẽ vẫn giữ gìn đạo đức, tư cách để không làm ảnh hưởng đến uy tín của cuộc thi" - cô viết.

Trao đổi với Zing.vn, ông Nguyễn Đăng Chương - Cục trưởng cục Nghệ thuật biểu diễn thừa nhận Cục đã tiếp nhận hồ sơ xin rút vương miện của Hoa hậu Triệu Thị Hà cũng như báo cáo từ phía công ty CIAT. Tuy nhiên, ông Chương cũng cho biết cần phải xác minh thêm từ phía Triệu Thị Hà nhưng hiện nay vẫn chưa thể liên lạc với cô vì lý do sức khỏe không tốt. Nếu xét theo quy định hiện hành về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp và người mẫu, lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu thì không có quy định cụ thể về vấn đề này.

Triệu Thị Hà là người dân tộc Nùng, cô lên ngôi Hoa hậu các dân tộc Việt Nam năm 2011. Trong thời gian tham gia cuộc thi, cô sinh viên quê Cao Bằng được đánh giá cao nhờ gương mặt phúc hậu và có trình độ văn hóa. Tuy nhiên, sau gần hai năm đăng quang, Triệu Thị Hà không xuất hiện nhiều trong các hoạt động của làng giải trí Việt. Những sự kiện có cô tham gia đều không quá nổi bật. Sau đó, cô chuyển vào Nam hoạt động nghệ thuật nhưng không tạo được bước chuyển mình đáng chú ý.

Hoa hậu các dân tộc Việt Nam 2011 Triệu Thị Hà bị đánh giá chọn trang phục không phù hợp trong một sự kiện ở quê hương.

Tháng 3/2013, Triệu Thị Hà về thăm quê và dự Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên. Tuy nhiên, thay vì diện trang phục dân tộc Nùng để tham gia lễ hội truyền thống quê hương, cô lại bước lên sân khấu với quần jeans, áo vest ngắn và bước lênh khênh trên đôi giày cao hơn 10 cm. Nhiều người dân nơi đây đánh giá cô ăn mặc không phù hợp khi tham dự lễ hội này.

Cuộc thi Hoa hậu các dân tộc Việt Nam do Công ty cổ phần Quảng cáo và hội chợ thương mại quốc tế - CIAT (do Hoa hậu Quý bà Đoàn Thị Kim Hồng làm Chủ tịch HĐQT) phối hợp cùng Uỷ ban Dân tộc tổ chức. Đến nay, cuộc thi đã ba lần được diễn ra. Không chỉ có Triệu Thị Hà mà Hoa hậu các dân tộc Việt Nam mùa đầu tiên năm 2007 Nguyễn Thị Hoàng Nhung và đương kim Hoa hậu các dân tộc Việt Nam Nguyễn Thị Ngọc Anh đều không có nhiều hoạt động nổi bật sau khi giành vương miện.

NHẠC SĨ TUẤN KHANH KỲ THỊ NGƯỜI NGHỆ AN, THANH HÓA, HÀ TĨNH

Lời dẫn của Tiên Lãng: Chúng tôi cũng đã đọc hết bài 2 phần của Nhạc sĩ Tuấn Khanh và thừa nhận lối viết phóng sự của nhạc sĩ quả là lôi cuốn. Nhưng nếu nói theo phong cách của dân luật thì nho còn hơi bị ... xanh! Bởi cả bài không thấy tác giả đưa ra bất cứ bằng chứng nào nhưng có rất nhiều đoạn tác giả khẳng định rằng có nhân viên an ninh mặc thường phục trong đoàn người cuồng loạn, đập phá. 

Dù không thấy lời nào tác giả lên án trực diện nhưng khi đọc cả bài 2 phần, không khó nhận ra mong muốn của tác giả muốn chuyển thông điệp đến mọi người rằng chính chính quyền đứng sau những vụ bạo loạn này! 

Một bạn trên fb cũng bất bình vì quan điểm phân biệt vùng miền của Nhạc sĩ Tuấn Khanh.

Kỳ thị người Nghệ An, Thanh Hóa và Hà Tĩnh

Là một nhạc sỹ suốt ngày chường cái mặt ra trên các diễn đàn và trò chơi âm nhạc, bỗng dưng ngứa nghề nhảy ra làm báo Tuấn Khanh đã viết một bài phóng sự (2 phần) "Đi giữa dòng bạo động" đăng trên blog của mình về những lộn xộn trong các cuộc biểu tình ở Bình Dương vừa qua.

Nếu đó là một bài viết khách quan, có trách nhiệm thì tốt quá. Đằng này, đọc toàn bộ bài viết của Tuấn Khanh sặc mùi kích động kỳ thị vùng miền, vu cáo công an và người Thanh Hóa, Nghệ An. Những bài viết kì thị kiểu này một thời đã làm khốn khổ người Thanh, Nghệ mỗi khi đi xin việc đã bị lên án, nay được quay trở lại và được tán dương trên các trang Boxít, Quê Choa, Ba Sàm, BBC, RFA... ở một mức nguy hiểm hơn - "nối giáo cho giặc"

Tôi để các bạn theo đường link mà đọc cho khách quan:http://nhacsituankhanh.wordpress.com/2014/05/15/di-giua-dong-bao-dong-p-1/. Chỉ xin trích dẫn từ trong một bài viết ngắn với vô số đoạn nói về người Thanh Hóa, Nghệ An thế này, liệu có nên?

“Bất ngờ tôi thấy Thy và Văn bỏ xe chạy vào đón tôi. Tín hiệu từ bên trong đã được truyền ra, giờ đây hơn 70-80 người cầm hung khí đón tôi ở cửa với ánh mắt đầy sát khí khiến Thy và Văn phải nhảy vào kèm tôi ra. Nhưng dường như không kịp rồi. Một thanh niên tóc nhuộm vàng, mặt không thể là công nhân, nhìn mặt tôi, hỏi lớn bằng giọng Thanh Hóa “Này, này, chú kia!”.”

“… Vừa chạy vừa điểm lại các sự kiện, Văn nhắc tôi rằng phần lớn những người có vẻ như chỉ huy, hướng dẫn mọi người. đều chạy trên các xe có biển số 36 – số Thanh Hóa. Tôi sực nhớ đến một người bạn ở Bình Dương đã nhắn tin nói với tôi về các cuộc bạo động xảy ra, một cách buồn phiền rằng “người Bình Dương không tệ như vậy, phần lớn các người gây bạo loạn đều đi xe số ba mươi mấy”. Quả là như vậy thật. Những người chạy trên những chiếc xe có số như 36, đều trang bị kỹ lưỡng bằng ống sắt, xà beng, cờ trống… như một cách có tính toán trước.”

“… Rồi đột nhiên một giọng Trung Bắc, kiểu giọng Nghệ An hét lên “vào đập đi anh em”. Cả đoàn người bị kích động rú ga tràn vào sân công ty, ập đến mọi nơi. Tiếng thùng gõ rầm rập. Người bảo vệ im lặng, nép mình, lùi lại. Thậm chí anh ta không dám nhìn theo những người cầm đầu vì sợ mang vạ.”
“… Một người giọng Thanh Hóa, đứng trên yên chiếc xe số 36, hét vào cửa sổ cho đám đông phá, đập hiệu quả hơn. “Đồng hồ kìa, bảng viết bằng kính kìa, đập hết đi”. Anh này hét lớn, phụ họa ngay sau đó là những tiếng xổn xoảng vang lên khắp nơi. …Hủy diệt là một mệnh lệnh rất rõ ràng, mà không phải người Việt bình thường nào đi theo đám đông cũng dám làm.”

“Một trong hai người mặc áo bộ đội thấy chúng tôi tách đoàn, đã chỉ gậy vào chúng tôi, hét lên, giọng Thanh Hóa “đi hướng này”.”

Đi kèm là những bức ảnh mà lẽ ra Tuấn Khanh nên gửi cho cơ quan điều tra thì hơn, không nên đưa nó lên mạng như là những bằng chứng về tội phạm.

Chưa dừng lại, Nhạc sỹ Tuấn Khanh còn viết cho đài BBC một bài “Vì sao gây bạo động ở Bình Dương?” vào ngày 13/5 có đoạn thế này:

“Trong những bài báo bị rút xuống vội vã của Nhà nước Việt Nam, người ta tìm thấy chi tiết bất thường về việc vài mươi người dẫn đầu rất hung hăng, luôn cầm cờ đỏ sao vàng như một cách để giới thiệu rõ mình là người Việt Nam. Đó là những người lạ mặt, được dân chúng trong vùng xác nhận, và họ luôn kích động mọi người đập phá, xô ngã mọi thứ.

…Điều gì đang diễn ra, ồn ào nhưng rất bí ẩn? Đã có không ít đồn đoán về chuyện ai là người đứng sau các cuộc bạo động chỉ có lợi cho Trung Quốc và những kẻ chủ trương bán nước này.”

Trình độ của Tuấn Khanh và lĩnh vực hoạt động của ông ấy chắc đủ hiểu biết để thấy tác động của một bài báo, nhất là khi trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài. Vậy, động cơ nào để Tuấn Khanh làm điều đó?