Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014

CHUYÊN GIA NGA VẠCH TRẦN MƯU ĐỒ BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG QUỐC

Tin tức thời sự - Có thể nói Việt Nam là nạn nhân đầu tiên trên con đường bành trướng chiến lược của Trung Quốc.

Kế hoạch bành trướng xuống phía Nam của Trung Quốc

Theo G.S Nga Vladimir Kolotov, nhà Việt Nam học, Trưởng bộ môn lịch sử các nước Viễn Đông, Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh thuộc Khoa Phương Đông – Đại học Tổng hợp Quốc gia St. Petersburg, việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương – 981 trên vùng biển thuộc thềm lục địa và Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là chiến lược dài hạn của Trung Quốc, nó nằm trong chiến lược kiểm soát Hoàng Sa, Trường Sa và cả Biển Đông.

Đây chỉ là một trong những bước thực hiện việc kiểm soát toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc. Thứ nhất, đây là việc phá hoại luật pháp quốc tế mà chúng ta từng biết, nó từng bắt đầu bằng việc xây dựng thế giới đơn cực từ cuộc chiến tranh thuộc địa kiểu mới ở Nam Tư, Afghanistan, Iraq, Syria, ở Libya...

Ông Kolotov (trái) trong một buổi tiếp các đại biểu Việt Nam tới thămViện Hồ Chí Minh thuộc Khoa Phương Đông – Đại học Tổng hợp Quốc gia St. Petersburg

Trung Quốc hiện là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới và muốn mở rộng tầm ảnh hưởng của mình và hướng bành trướng chiến lược chính mà Trung Quốc muốn mở rộng là xuống phía Nam.

Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược rất quan trọng, nếu Trung Quốc không kiểm soát được Việt Nam thì rất khó kiểm soát được toàn bộ vùng Đông Nam Á và các nước ASEAN. Chính vì thế, có thể nói Việt Nam là nạn nhân đầu tiên trên con đường bành trướng chiến lược của Trung Quốc.

Trên bản đồ của Lầu Năm góc xuất bản ở Mỹ về kế hoạch chiến lược của Trung Quốc cho thấy là Trung Quốc sẽ kiểm soát Đông Nam Á trước và Đông Bắc Á sau.

Có hai giai đoạn , giai đoạn đầu tiên là thực hiện tuyên bố “đường chín đoạn” mà Việt Nam gọi là “đường lưỡi bò”. Giai đoạn thứ hai sẽ là kiểm soát cả vùng Đông Nam Á, cả Philippines đến đảo Guam trên Thái Bình Dương.

Vấn đề là các nước có chấp nhận điều đó hay không? Theo ghi nhận, ở Việt Nam cũng như các nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đều không chấp nhận "luật chơi" như thế.

Chuyên gia Việt Nam nhận định về lập luận sai trái của tác giả Dmitry Kosyrev

Hiện nay dư luận bạn đọc tại Việt Nam rất bất bình về việc một nhà báo Nga, ông Dmitry Kosyrev đã có bài viết đăng tải trên trang Ria Novosti tiếng Nga với tiêu đề “Những thỏa thuận giữa Moskva và Bắc Kinh tốt hơn mọi thông báo”.

Trong đó tác giả bài báo có những thông tin, ý kiến và lập luận sai trái, khập khiễng, mang nặng định kiến cá nhân về quan hệ Việt Nam- Trung Quốc và những tình hình trên Biển Đông.

Theo ông Nguyễn Đăng Phát, Tổng Biên tập tạp chí Bạch Dương, tác giả đã đụng đến những vấn đề có tính chất nguyên tắc đối với chúng ta mà không thể chấp nhận được.

Bài viết của tác giả Dmitry Kosyrev đăng tải trên trang Ria Novosti tiếng Nga

Chẳng hạn, trong tình hình căng thẳng hiện nay trên Biển Đông mà nguyên nhân là do Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương- 981 trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, thì một chi tiết trong bài báo, tác giả cố tình nói gần như là do Việt Nam gây ra.

Tác giả nói rằng vị trí đặt giàn khoan đó vị trí đặt giàn khoan chỉ cách bờ biển Trung Quốc 27km và cách bờ biển Việt Nam 241km. Cái đó là cái không thể chấp nhận được đối với độc giả Việt Nam.

Thứ 2, lối viết bao trùm hơn là dùng lối so sánh Việt Nam và Philippines giống như Ukraine. Tác giả cho là Ukraine hiện nay được Mỹ và phương Tây sử dụng để chống Nga, gây khó cho Nga.

Và vấn đề biển đảo hiện nay trên Biển Đông cũng như những vấn đề khác nữa thì Việt Nam và Philippines cũng là do phương Tây lợi dụng để làm khó cho Trung Quốc.

Lối so sánh đó cũng không thể chấp nhận được, không những khập khiễng, mà còn ngộ nhận, sai lệch và không hiểu vấn đề. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc khác chứ.

Nhân dân Việt Nam và các nhà lãnh đạo Việt Nam khẳng định chủ quyền biển đảo của ta chứ không phải ta theo ai để gây khó cho Trung Quốc cả.

Chuyên gia Nguyễn Đăng Phát, Tổng biên tập Tạp chí Bạch Dương

Cũng kiểu so sánh ấy, có một cách so sánh khác cũng không thể chấp nhận được. Nga vẫn thường nói và có thể đúng là một phần lãnh thổ phía đông của Ukraine trước đây là thuộc Nga.

Và những vùng đó là có đông người Nga và người nói tiếng Nga sinh sống, và thực tế hiện nay một bộ phận khá lớn những người ấy muốn rời khỏi Ukraine gia nhập với Nga.

Tác giả lại so sánh Việt Nam trong trường hợp ấy như thể trước đây Việt Nam cũng thuộc Trung Quốc. Cách nói theo kiểu so sánh đó là rất sai, rất chủ quan, không đúng và gây phản ứng với đông đảo người Việt Nam.

Từ đó tác giả nói Trung Quốc và Nga là 2 trường hợp giống nhau, bắt tay hợp tác với nhau là logic. Việc hợp tác giữa Nga và Trung Quốc là bình thường, Trung Quốc là đối tác lớn của Nga.

Chuyến thăm vừa rồi của Tổng thống Nga Putin đạt được nhiều kết quả, như thế cũng đáng mừng cho 2 nước. Nhưng so sánh như thế là cố ý, sai trái và không thể chấp nhận được.

T.H (Tổng hợp Dân Trí)

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

DƯƠNG TỰ TRỌNG ĐƯỢC GIẢM ÁN 2 NĂM

Ong Bắp Cày

Chiều nay 23/5, HĐXX Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội tuyên bản án phúc thẩm đối với Dương Tự Trọng và các đồng phạm trong vụ án “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”.

Các bị cáo nghe chủ tọa phiên tòa tuyên án (Ảnh: Dân Trí)

HĐXX phúc thẩm xét thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, nhiều bị cáo công tác trong ngành công an đã cấu kết với các đối tượng xã hội, các đối tượng có nhân thân xấu, từng phạm tội để tổ chức đưa Dương Chí Dũng trốn đi nước ngoài. Tòa phúc thẩm nhận thấy, đây là hành vi phạm tội có tổ chức, vụ án có đồng phạm, thủ đoạn phạm tội tinh vi, mục đích của các bị cáo đã đạt được là Dương Chí Dũng đã trốn được sang Campuchia.

HĐXX phúc thẩm nhận thấy, Dương Tự Trọng giữ vai trò chính, chủ mưu trong vụ án. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, Trọng đã thành khẩn khai báo. Tòa phúc thẩm cho rằng cần áp dụng điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự, xét giảm 1 phần hình phạt cho Dương Tự Trọng. 

Với bị cáo Vũ Tiến Sơn, tòa phúc thẩm nhận thấy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội rất tích cực, thống nhất ý chí với Dương Tự Trọng trong suốt quá trình đưa Dương Chí Dũng bỏ trốn. Do đó, bản án 13 năm tù dành cho Vũ Tiến Sơn là thỏa đáng, tòa phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

Xem xét toàn diện vụ án, Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của Dương Tự Trọng, tuyên phạt bị cáo 16 năm tù giam (giảm 2 năm). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 22/2/2013. 

HĐXX phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, đơn kháng cáo kêu oan của các bị cáo khác, tuyên bố giữ nguyên mức hình phạt với các bị cáo này.

Theo đó, bị cáo Vũ Tiến Sơn y án 13 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 5/12/2012.

Nguyễn Trọng Ánh 6 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 28/1/2013.

Đồng Xuân Phong 7 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 18/1/2013.

Trần Văn Dũng (Dũng “Bắc Cạn”) 8 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 4/9/2012. 

Đối với bị cáo Phạm Minh Tuấn, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo này bởi án sơ thẩm đã thích đáng.

Bị cáo Dương Tự Trọng không phải chịu án phí phúc thẩm.

Khi các bị án được dẫn giải ra xe thùng, Dương Tự Trọng vẫy chào người thân, nói lớn căn dặn người thân giữ gìn sức khỏe. Người thân các bị án khác không được vào trong khuôn viên tòa án hô lớn, vẫy chào các bị án.

NHẬT BẢN SẼ CẤP CHO VIỆT NAM LOẠI TÀU TUẦN TRA NÀO?

Dự đoán loại tàu tuần tra Nhật sẽ cung cấp cho Việt Nam

Theo Báo Đất Việt 

Kế hoạch cung cấp tàu tuần tra cho Việt Nam nhiều khả năng sẽ được đẩy nhanh trong chuyến thăm Việt Nam sắp tới của Ngoại trưởng Nhật Fumio Kishida.


Dưới đây là một số ứng viên tàu tuần tra của Nhật có thể được viện trợ cho Việt Nam:

Theo kế hoạch khi sang thăm Việt Nam, Ngoại trưởng Kishida sẽ có cuộc gặp với Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tại Hà Nội, hãng tin Kyodo (Nhật Bản) dẫn lời nguồn tin chính phủ Nhật Bản cho biết vào ngày 22/5

Nguồn tin trên cho biết thêm, trong chuyến thăm lần này, nhiều khả năng 2 bên sẽ nhất trí "đẩy nhanh tiến trình tham vấn về việc Nhật Bản cung cấp tàu tuần tra cho Việt Nam". 

Mặc dù chưa tiết lộ Nhật Bản sẽ cung cấp loại tàu nào và số lượng bao nhiêu chiếc, nhưng dựa vào một số thông tin đã được công bố thì rất có thể phía Nhật sẽ cung cấp cho Việt Nam loại tàu tuần tra có chiều dài khoảng 40 m. 

Căn cứ vào chiều dài nói trên và căn cứ vào các loại tàu tuần tiễu hiện có của Nhật, loại được chọn rất có thể là tàu tuần tiễu thuộc lớp Mihashi/Raizan. 

Tàu tuần tra lớp Mihashi/Raizan có hai loại khác nhau. Một loại có chiều dài 35m và một loại có chiều dài 46m. 

Ứng cử viên đầu tiên là tàu lớp Mihashi/Raizan loại có chiều dài 46 m. Tàu có các thông số kỹ thuật như sau: Giãn nước 189 tấn, Chiều dài 46 m, Chiều rộng 7.5 m, Chiều cao 4 m. 

Tàu sử dụng 2 động cơ động cơ diesel 9400ps, tốc độ tối đa 35 hải lý/h. 

Tàu được trang bị 1 radar JMA 1596 Nav, một radar JMA 1576 Surf và một radar JMA 3000 helo control. 

Về trang bị vũ khí tàu được trang bị 1 pháo 20mm JM61 MB Sea Vulcan Gatling AA, một súng 12.7mm. 

Thân tàu làm hợp kim nhôm, ngoài ra tàu còn được trang bị 1 cano phao. Tàu được vận hành bởi thuỷ thủ đoàn 15 người. 

Ứng viên tiếp theo của lớp Mihashi/Raizan là loại tàu có chiều dài 35m. Tàu có các thông số kỹ thuật cụ thể: Giãn nước 134 tấn khi không mang theo thiết bị ,189 tấn khi mang theo thiết bị. 

Tàu có chiều dài 35 m, Chiều rộng 6.3 m, Chiều cao 3.4 m. Tàu được trang bị 2 động cơ động cơ Diesel Fuji Pielstic 16PA4 V185VG 4800ps. Tốc độ của tàu này là 28 hải lý/h. 

Cũng giống như ứng cử viên trước đó, tàu được trang bị 3 loại radar khác nhau: một radar JMA 1596 Nav, một radar JMA 1576 Surf, và radar JMA 3000 helo control. 

Tàu được vận hành bởi thuỷ thủ đoàn 12 người. Thân tàu làm thép cường độ cao, được trang bị 1 vòi rồng về sau thay bằng súng 12.7mm, và được trang bị một cano phao.

Chuyện ít biết: TRUNG QUỐC ĐÃ 3 LẦN ĐƯA GIÀN KHOAN VÀO VÙNG BIỂN VIỆT NAM

TQ 3 lần đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam

(Kienthuc.net.vn) - Ngoài giàn khoan Hải Dương 981 (HD 981) được TQ hạ đặt vào vùng biển VN từ ngày 1/5/2014, năm 1997 và 2004, nước này từng triển khai giàn khoan Kantan-3, khoan trong Lô 113 của VN ngoài khơi Thừa Thiên Huế.

Từ ngày 1/5, Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng biển đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.

Sau khi Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham từ Philippines vào năm 2012 thì việc hạ đặt giàn khoan vào vùng biển chủ quyền của Việt Nam là diễn biến mới nhất của cái gọi là “động thái hung hăng mới” của nước này trên Biển Đông. 

Vậy, tại sao Trung Quốc lại nhằm vào Việt Nam trong số các nước có tranh chấp Biển Đông. Liệu sau ngày 15/8, Trung Quốc có rút giàn khoan về như tuyên bố, hay vẫn để đấy hoặc chỉ đơn giản là di chuyển giàn khoan đến vị trí khác cũng không được Việt Nam chấp nhận? Trước đó, Trung Quốc từng triển khai đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam lần nào chưa?

Tàu hải cảnh Trung Quốc truy cản tàu CSB 4032 của Việt Nam, không cho tiếp cận giàn khoan Hải Dương 981. Ảnh: Cảnh sát biển Việt Nam.

Theo bài viết của học giả Lê Hồng Hiệp trên tờ Vietnam+, sau năm 2013 khá ôn hòa, “làn sóng” mới này bắt đầu vào đầu năm nay với việc Trung Quốc bao vây Bãi Cỏ Mây trên quần đảo Trường Sa. Có nhiều bài báo cho rằng, Trung Quốc đã chủ động chuẩn bị cho việc xây dựng một đường băng trên Bãi đá Gạc Ma (được Trung Quốc chiếm đóng sau cuộc đụng độ với Việt Nam năm 1988).

Trung Quốc 3 lần triển khai giàn khoan vào vùng biển Việt Nam

Việc triển khai giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam không phải là chiến thuật mới của Trung Quốc trong tranh chấp lãnh hải với Việt Nam. Năm 1997 và cuối 2004, Trung Quốc đã triển khai giàn khoan Kantan-3 và khoan trong Lô 113 của Việt Nam ngoài khơi Thừa Thiên Huế.

Trong cả 2 trường hợp trên, Trung Quốc đã rút giàn khoan sau khi Việt Nam có những phản ứng về ngoại giao.

Tuy nhiên, việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981 có thể được coi là bước leo thang trong thái độ cương quyết của Trung Quốc. Không giống như Kantan-3, giàn khoan mới này được trang bị nhiều công nghệ tối tân có điều kiện khoan được tại vùng biển nước sâu.

Mặc dù vẫn không rõ việc giàn khoan này thực tế có tiến hành việc khoan thăm dò dầu khí không, nhưng việc nó được trang bị công nghệ có khả năng khoan sâu đồng nghĩa với việc Trung Quốc đang đe dọa đối với quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam.

Các chuyên gia có thẩm quyền của Việt Nam cũng báo cáo về tình trạng gây hấn nghiêm trọng của Trung Quốc. Ví dụ, Trung Quốc đã đưa lên đến 80 tàu “hộ tống” giàn khoan gồm nhiều lực lượng khác nhau trong đó có 7 tàu chiến của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, nhằm hăm dọa các tàu Việt Nam. Một số tàu đã đâm một cách có chủ đích vào các tàu của Việt Nam, gây tổn thất đáng kể.

Tại sao Trung Quốc nhằm vào Việt Nam trong số các nước có tranh chấp Biển Đông?

Đối diện với vấn đề này, nhiều câu hỏi đặt ra là tại sao Trung Quốc lại nhằm vào Việt Nam trong số các nước có tranh chấp trên Biển Đông.

Một là, Trung Quốc coi Việt Nam là mục tiêu “dễ chịu” hơn so với các bên tranh chấp khác trong ASEAN. Với mục tiêu là Việt Nam, Trung Quốc sẽ không vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các cường quốc khác nếu là Philippines, quốc gia gần đây đã tăng cường hợp tác quân sự với Mỹ.

Thứ hai, việc đặt giàn khoan gần quần đảo Hoàng Sa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc trong việc bảo vệ giàn khoan này. Về mặt địa lý, Trung Quốc có điều kiện thuận lợi để gây sức ép với Việt Nam hơn là các nước tranh chấp khác.

Thứ ba, Việt Nam là nước cạnh tranh lớn nhất của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông, vì vậy nhắm vào Việt Nam là cơ hội để Trung Quốc kiểm tra, đánh giá quyết tâm và khả năng thực sự của Việt Nam. Thời gian gần đây, Việt Nam đã đầu tư lớn để nâng cấp lực lượng hải quân và các lực lượng chấp pháp trên biển.

Thứ tư, gần đây Việt Nam đang nỗ lực tiến tới quan hệ gần gũi hơn với Mỹ, và sự triển khai giàn khoan là lời cảnh báo của Trung Quốc về hậu quả của những hành động như vậy.
Bất kể mục đích của Trung Quốc là gì, việc hạ giàn khoan thực sự là một mối đe dọa đối với lợi ích hợp pháp của Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam phải đứng lên chống lại những thách thức từ phía Trung Quốc. Nhưng không may, Việt Nam có rất ít sự lựa chọn để chống lại “cuộc xâm lăng” này từ người hàng xóm phương bắc.

Hiển nhiên, Việt Nam không muốn sử dụng vũ lực để buộc giàn khoan rời khỏi Vùng Đặc quyền kinh tế của mình, vì nó tiềm ẩn nguy cơ lớn dẫn tới chiến tranh diện rộng với Trung Quốc, và Việt Nam không hề mong muốn điều đó. Sự kiềm chế của Việt Nam trong việc sử dụng vũ lực là có thể hiểu được, mặc dù điều đó có thể làm dấy lên nghi ngờ về khả năng Việt Nam có thể ngăn chặn được Trung Quốc.

Sau ngày 15/8, Trung Quốc sẽ làm gì với giàn khoan HD 981

Theo học giả Lê Hồng Hiệp, vì những phân tích ở trên, hệ quả là, tất cả những gì Việt Nam có thể làm là công khai hóa những việc làm của Trung Quốc, tranh thủ sự ủng hộ về mặt ngoại giao của cộng đồng quốc tế, phản đối hành động của Trung Quốc.

Sửa chữa tàu cảnh sát biển bị hư hỏng do tàu Trung Quốc cố tình đâm thẳng vào. Ảnh: TTXVN.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có thể vẫn duy trì thường xuyên hiện diện của các tàu chấp pháp xung quanh giàn khoan, như một hình thức phản đối hành động của Trung Quốc, hay ít nhất cũng là một chiến thuật để cản trở sự triển khai và thăm dò của giàn khoan.

Tương tự, GS Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Austraila dự đoán rằng, Trung Quốc rất có thể vẫn theo kế hoạch đề ra từ đầu là duy trì giàn khoan trong vùng biển Việt Nam cho đến cuối thời hạn, mà họ đã ấn định.

Kết cục có thể xảy ra là, hai bên sẽ cố gắng tạo sự cân bằng cho đến ngày 15/8/2014 - ngày Trung Quốc tuyên bố sẽ rút giàn khoan. Nhưng vẫn chưa rõ Trung Quốc có thực hiện đúng cam kết hay không và nếu có thực hiện, liệu Trung Quốc sẽ đưa giàn khoan quay trở lại vùng biển của mình, hay chỉ đơn giản là di chuyển giàn khoan đến vị trí khác cũng không được Việt Nam chấp nhận.

Học giả Australia đánh giá cao biện pháp của Việt Nam

Theo giáo sư Carl Thayer, có nhiều động thái cho thấy Trung Quốc muốn kiểm soát toàn bộ Biển Đông, kể cả hoạt động khai thác các nguồn tài nguyên tại đây. Việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là bước đi nhằm củng cố tham vọng này.

Hành động đó của Trung Quốc là bất ngờ, gây hấn và bất hợp pháp. Bất ngờ do hành động này diễn ra khi quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đang tốt đẹp. Gây hấn bởi đây là lần đầu tiên Trung Quốc triển khai một giàn khoan lớn tại EEZ của một nước mà không được sự cho phép của nước đó. Ngoài ra, Trung Quốc đang triển khai hàng trăm tàu, trong đó có cả tàu chiến trang bị vũ khí tới bảo vệ giàn khoan, đó là hành động rất gây hấn. Và bất hợp pháp vì Trung Quốc không tuân thủ quy định của luật pháp quốc tế.

Đặc biệt, giáo sư Thayer đánh giá cao những biện pháp của Việt Nam trong đối phó với hành vi ngang ngượccủa Trung Quốc tại Biển Đông hiện nay. Giáo sư nhấn mạnh Việt Nam phải để cộng đồng quốc tế hiểu rằng Việt Nam là nạn nhân, còn Trung Quốc là kẻ đi xâm lược trong trường hợp này.

Trong khi đó, Giáo sư Ronald Clarke của Đại học Sydney cho rằng hành động của Trung Quốc là thiếu tôn trọng nước láng giềng. Biện pháp khôn ngoan là đối thoại chứ không phải tự ý hành động.

Theo ông Clarke, Trung Quốc cần chấm dứt những hành động như vậy, đối thoại với Chính phủ Việt Nam cũng như chính phủ các nước có liên quan để tìm ra giải pháp cho vấn đề Biển Đông.

Căng thẳng biển Đông làm nóng Quốc hội Mỹ

Theo thông tin mới nhất từ TTXVN, chủ đề Biển Đông đã chiếm phần lớn thời lượng cuộc điều trần kéo dài gần một tiếng rưỡi tại Quốc hội Mỹ.

Trong cuộc điều trần ngày 20/5 của Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á-Thái Bình Dương Daniel Russel trước Tiểu ban châu Á-Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ về ngân sách hoạt động và viện trợ của Bộ Ngoại giao Mỹ cho khu vực trong tài khóa 2015, các nghị sỹ Mỹ cho rằng các hành động của Trung Quốc gây căng thẳng ở Biển Đông là một thách thức lớn đối với Mỹ và các nước trong khu vực.

Các nghị sỹ cũng như ông Russel đều cho rằng hành động đơn phương gây căng thẳng qua việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại Biển Đông và sử dụng nhiều tàu thuyền, trong đó có tàu của Hải quân, hộ tống đã và đang đe dọa tới hòa bình, an ninh cũng như sự hiện diện của Mỹ trong khu vực.

Phát biểu trong cuộc điều trần, ông Russel khẳng định các diễn biến ở Biển Đông hiện nay là những hành động của Trung Quốc nhằm “giành giật chủ quyền một cách phi pháp và việc xây dựng trên đảo Gạc Ma là hành động nhằm quân sự hóa các hòn đảo tranh chấp để làm cơ sở cho các yêu sách chủ quyền”.

Chủ tịch Tiểu ban châu Á-Thái Bình Dương Steve Chabot cho rằng, các hành động nói trên của Trung Quốc chính là “một trong những thách thức đối với mục tiêu mà Mỹ đặt ra ở khu vực” khi thực hiện chiến lược tái cân bằng.

Đông Nhiên (Tổng hợp)

CÔNG HÀM 1958 VỚI CHỦ QUYỀN HOÀNG SA, TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM

Chinhphu.vn - Trung Quốc mới đây lại viện dẫn Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một "bằng chứng" về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Song đây là một "vở diễn lại" quá lố của Trung Quốc bởi công luận Việt Nam đã từng phân tích sáng tỏ nội dung Công hàm 1958, khẳng định rằng văn bản này được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.Dưới đây, Báo điện tử Chính phủ xin dẫn lại bài báo "Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam" đăng trên báo Đại Đoàn kết vào tháng 7/2011 trong đó tác giả bài báo phân tích rõ nội dung Công hàm 1958 cũng như chỉ ra những diễn giải xuyên tạc của Trung Quốc đối với văn bản này:

Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng".
Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan.

Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.

Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra.

Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân" của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.

Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.

Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng" Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.

Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này.

Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.

Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách" đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH -Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH - Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép" thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.

Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.

Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.

Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.

Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.

Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu.

Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.

Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.

Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.

Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.

Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.

Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel" để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel". Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel" phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel" cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine", bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua", bản án "Ngôi đền Preah Vihear"...

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.

Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn" Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình".

GIÀN KHOAN 981 BIẾN TRUNG QUỐC THÀNH VẾT NHỤC CỦA LỊCH SỬ

Bằng những hành động phi nhân, phi đạo vừa rồi trên sóng nước Biển Đông thì hình ảnh một đất nước Trung Quốc sẽ bị méo đi.


Nhà văn Chu Lai đã có những chia sẻ thẳng thắn về sự bành trướng của Trung Quốc hiện nay trên biển Đông.

"Trung Quốc vừa ăn cướp vừa la làng"

Trong lịch sử bang giao giữa các quốc gia trên thế giới, đúng là tôi chưa thấy một nước nào lại có thể cùn, liều, và thiếu tự trọng đến vô sỉ 'vừa ăn cướp vừa la làng' như quốc gia mang tên Trung Quốc này, tất nhiên là giới cầm quyền chứ không phải nhân dân.

Nhà văn Chu Lai

Ngay từ cuộc xung đột biên giới phía Bắc năm 1979 do Trung Quốc khởi hấn, là người lính cầm bút theo sát bộ đội, tôi đã sững sờ khi được chứng kiến một buổi kết nạp đảng của họ. Giống hoàn toàn buổi lễ kết nạp đảng của ta, cũng giơ nắm tay trái lên thế, cũng Quốc tế ca, chỉ khác tiếng nói và bài Đông Phương Hồng. Và tôi biết rằng ở họ, từ trong cắn cốt đã có cái gì phản trắc không ổn.

Để đến bây giờ thì không ổn thật. Họ đã hiện nguyên hình là một kẻ có hành vi ngông cuồng, lì lợm, bất chấp tất cả công lý, đạo lý và pháp lý về chủ quyền lãnh thổ của nước khác. Đã thế họ còn lớn giọng đến không tin nổi, nhưng không, biển ấy, nước ấy là của tôi, của lịch sử nước tôi, chúng tôi có quyền ra vào làm gì thì làm, thoải mái. Giàn khoan ư? Chuyện bình thường, chuyện vặt.

Thử hỏi có kẻ cướp nào xông vào nhà người ta rồi la lối đây là nhà tôi không? 

Và cũng thử hỏi có quốc gia nào như Việt Nam, người láng giềng cậy to cậy khỏe bỗng một ngày mang đồ đạc, gậy gộc, tàu bè đến nằm chình ình ngay trong sân nhà mình rồi la hét, rồi phá quấy, đâm cái này, chọc cái kia. Nhưng mà vì đại cuộc, vì những điều xa xôi, ta vẫn cố giữ hòa khí, vẫn ngậm bồ hòn làm ngọt thay vì theo lệ thường xưa nay, một hành vi trắng trợn như thế ắt sẽ phải trả giá ngay.

Một sự nhún nhường đáng thán phục. Một năng lực ôn hòa chỉ có ở một dân tộc có nền văn hóa vượt trội.

Vậy mà, để biện minh cho hành động này, người lãnh đạo cao nhất của họ lại dám vỗ ngực khẳng định: 'Không, người Trung Quốc chúng tôi không có gen xâm lược”. Vậy thì thử hỏi 20 ngày qua, người của các ngài làm đủ trò đủ vẻ trên vùng biển hiền hòa của Việt Nam thì là các ngài đang mang thứ gen gì? Và thử hỏi hàng ngàn năm qua, cả dân tộc Việt Nam phải luôn chiến đấu và chiến thắng vó ngựa xâm lăng của người Trung Hoa thì chúng tôi có gen xâm lược chăng? Một câu nói rất tùy tiện của một hệ tư duy rất bá quyền không thể chấp nhận được.

"Việt Nam không có gen phản bạn"

Dân tộc Việt Nam bao giờ cũng lấy hai chữ hòa hiếu làm đầu. Phải chăng đau thương lắm nên vị tha nhiều? Việt Nam chúng tôi đã vị tha, đã nín nhịn từng phút từng giây để mong Trung Quốc thấy hổ thẹn, thấy quá lố mà nghĩ lại và khi đã nghĩ lại rồi, đã rút giàn khoan về rồi thì chúng ta lại là bạn như bao lâu nay chúng ta vẫn là bạn.

Mà, nếu nói theo cách nói của vị nguyên thủ ấy thì, truyền thống người việt Nam chúng tôi không có gen phản bạn. Kể cả anh bạn đó đôi khi cũng trái gió trở trời. Bởi triết lý của tổ tiên chúng tôi là 'Một điều nhịn chín điều lành'

Nhưng càng nhịn thì càng không lành khi các vị liên tục lấn tới, liên tục đe dọa, uy hiếp chúng tôi bằng đủ những trò tinh vi, hiểm ác nhất. Các vị muốn đưa chúng tôi vào bẫy, buộc chúng tôi phải phát khùng lên một khi không còn kiềm chế được để các vị lấy đó làm nguyên cớ mà mở cuộc xung đột mang màu sắc chiến tranh ư?

Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Chúng tôi nhịn không phải vì chúng tôi hèn, chúng tôi sợ mà nhịn vì chúng tôi là một dân tộc biết điều. Nhưng thưa các ngài, một khi cái nhịn đó, cái biết điều cao thượng đó bị các ngài coi thường, xúc phạm, dồn đến chân tường thì câu trả lời của chúng tôi thuộc về nhân dân, thuộc về lịch sử mà hàng ngàn năm nay đã biết kiêu hãnh trả lời chắc các ngài còn nhớ.

Bởi người Việt Nam có thể bỏ qua được mọi điều nhưng nếu một ai, một thế lực nào dám động chạm đến bàn thờ ông bà, đến phẩm hạnh dân tộc thì người Việt Nam sẽ rất biết cách trả lời và trả lời có hiệu quả.

Trộm nghĩ, tất cả đều chưa muộn. Rút giàn khoan về lúc này là hợp lý. Cái giàn khoan khổng lồ ấy, xét đến cùng nó là một cái mụn ghẻ trong mối bang giao giữa hai nước. Mà đã là mụn ghẻ, thì một khi kẻ sinh ra nó không tự kéo nó đi thì người sở tại sẽ có cách kéo.

Khi đó, và ngay bây giờ, bằng sự xâm lược đến trơ tráo của mình, chính các ngài đã biến đất nước mình thành vết nhục của lịch sử, thành nỗi cô độc thảm hại trước cảm nhận của mọi quốc gia. Mà đã cô độc rồi thì các ngài biết chơi với ai trên hành tinh này.

Xin cám ơn những người bạn có lương tri trên khắp thế giới đã biết chia sẻ đúng lúc những cố gắng phi thường của Việt Nam và biết căm phẫn đúng độ trước những động thái ngày một leo thang của kẻ mang tham vọng làm sen đầm Biển Đông. Những người tử tế, lương thiện vẫn còn nhiều, rất nhiều. Việt Nam không đơn độc vì Việt Nam có chính nghĩa. Việt Nam không cực đoan dân tộc vì Việt Nam biết lấy đối thoại, lòng tin làm điểm tựa. 

"Hình ảnh Trung Quốc sẽ bị méo đi"

Tới đây, Trung Quốc có thể giàu hơn, có thể thành siêu cường kinh tế số 1 của nhân loại nhưng bằng những hành động phi nhân, phi đạo vừa rồi trên sóng nước Biển Đông thì hình ảnh một đất nước Trung Quốc sẽ bị méo đi, hạ thấp xuống biết chừng nào. Cái giá đó ngàn năm không lấy lại được.

Và tôi, một người lính, một người cầm bút, tôi tán thành cách hành xử của đất nước tôi, của nhân dân tôi, trong thời gian nhạy cảm và không kém hiểm nghèo vừa qua, song nếu điều tồi tệ nhất xảy ra, chắc chắn tôi cũng có mặt cùng với những người lính, cùng với nhân dân tôi ở những điểm đòi hỏi chí quả cảm và lòng tự trọng nhất.

Nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã quá thấu hiểu cái giá vô cùng đắt phải trả cho một cuộc chiến nhưng không phải vì cái đắt đó mà cúi đầu cho kẻ khác làm nhục. Điều đó còn đắt hơn. 90 triệu dân Việt chắc cùng đồng lòng như thế. Và cũng đã từng đồng lòng như thế trong lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang, hiển hách.

Lê Phương (ghi)/GDVN

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014

HÃNG THÔNG TẤN RIA NOVOSTI CỦA NGA ĐĂNG BÀI XUYÊN TẠC SỰ THẬT, VU KHỐNG VIỆT NAM

Phẫn nộ hãng tin uy tín Nga xuyên tạc lịch sử, vu khống Việt Nam

(VTC News) - Hãng thông tấn uy tín RIA Novosti của Nga đăng bài viết xuyên tạc sự thật, vu khống Việt Nam trong vụ giàn khoan Hải Dương 981.

RIA Novosti (РИА Новости) hoặc ngắn gọn là RIA là một trong những hãng thông tấn lớn nhất Liên Xô và Nga. Mục tiêu của hãng – đưa tin một cách nhanh chóng, cân nhắc và khách quan về các sự kiện trên thế giới, truyền đạt tới công chúng quốc tế về cái nhìn của Nga đối với tình hình (Xem tại http://ria.ru/docs/about/index.html).

Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa 

Với một bề dày truyền thống và sứ mạng phát biểu như vậy, bài báo “Những thỏa thuận giữa Moskva và Bắc Kinh tốt hơn mọi thông báo” (Соглашения между Москвой и Пекином лучше всяких деклараций) của Dmitri Kosyrev đăng trên RIA Novosti đã gây thất vọng sâu sắc cho người Việt Nam.

Bài báo mở đầu bằng những nhận định của các chuyên gia khác nhau trước chuyến thăm Trung Quốc của tổng thống LB Nga Vladimir Putin, và ngay sau đó là một tiểu mục về “Ukraine của Trung Quốc”.

Được Hội đồng Dân ủy Liên Xô thành lập ngày 24/6/1941, tức 2 ngày sau khi Cuộc chiến tranh Giữ nước vĩ đại của Liên Xô bắt đầu, Sovinformburo (tiền thân của RIA Novosti) đã khởi đầu bằng những tin tức chiến trận, phong trào du kích và hậu phương. Năm 1961, Sovinformburo được cải cách thành TTX APN, và trở thành hãng thông tấn hàng đầu của Liên Xô cũ. Năm 1990, tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev ra lệnh trên cơ sở TTX APN thành lập hãng thông tấn “Novosti”, và vào tháng 9/1991 thì đổi tên thành hãng thông tấn Nga RIA Novosti.
Vào ngày 09/12/2013 Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra lệnh giải thể RIA Novosti và thành lập hãng tin quốc tế Rossiya Segodnya (International Information Agency Russia Today)
Tác giả Kosyrev khẳng định một cách đầy võ đoán – Việt Nam và Philippines đóng vai trò giữa Trung Quốc với Mỹ và phương Tây tương tự như Ukraine đã làm đối với Nga. Việc Trung Quốc sơ tán người dân sau những sự kiện đáng tiếc ở Bình Dương và Hà Tĩnh được Kosyrev cho rằng “Trung Quốc đã phải cứu công dân của mình khỏi bạo loạn ở Việt Nam”.

Đó là một góc nhìn kỳ lạ, cố tình gây căng thẳng và ở một mức độ nào đó, đổ thêm dầu vào lửa.

Tiểu mục tiếp theo trong bài báo “Việt Nam – không phải Trung Quốc”. Trong tiểu mục này, Kosyrev đã xuyên tạc sự thật khi viết dàn khoan là nằm trên thềm lục địa, cách bờ biển Trung Quốc 27 km và cách bờ biển Việt Nam tận 241 km, cố tình cho rằng quần đảo Hoàng Sa hoàn toàn thuộc về Trung Quốc. Trong tiểu mục này, Kosyrev có một đoạn nhấn mạnh đóng khung rất đáng phê phán. Xin dẫn ra nguyên văn và phần dịch:

Tại sao Việt Nam lại là Ukraine của Trung Quốc: đó là lịch sử lâu đời. Hai ngàn năm trước, Việt Nam là một phần của Trung Quốc. Nhưng từ năm 880 – thì không còn. Tất cả các thế kỷ tiếp theo giới trí thức Việt Nam đã bỏ ra rất nhiều công sức để chứng tỏ: Việt Nam – không phải Trung Quốc.

Đây là đoạn trích khiến cho bất kỳ một người dân Việt Nam yêu nước nào cũng phải thấy phẫn nộ. Đúng, trong lịch sử Việt Nam có khoảng đen của 1000 năm Bắc thuộc, đó là thời kỳ Việt Nam bị Trung Quốc cai trị, nhưng trước đó và sau đó, Việt Nam luôn là quốc gia độc lập với Trung Quốc, không bao giờ khuất phục trước họ. Mỗi khi có họa xâm lăng từ Trung Quốc láng giềng, đất nước này đều xuất hiện những người anh hùng đánh bật quân thù ra khỏi bờ cõi.

Không thể hình dung được, một nhà báo chuyên về khu vực Đông Nam Á với bao nhiêu năm kinh nghiệm lại có thể thể hiện sự yếu kém về mặt kiến thức như vậy. Đây chỉ có thể là sự cố tình bẻ cong sự thật lịch sử.

Tiếp đó, tác giả Kosyrev tiếp tục đưa ra những luận cứ rất đáng tranh cãi - tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc rất giống với Việt Nam, ngôn ngữ của tỉnh này cũng khó hiểu đối với người Trung Quốc từ các tỉnh khác, cũng như tiếng Việt. Không thể hiểu nổi logic của tác giả trong luận cứ này.

Về tác giả bài báo Dmitri Kosyrev
Dmitri Kosyrev, sinh năm 1955, tốt nghiệp Viện Nghiên cứu châu Á và châu Phi của Đại học Tổng hợp quốc gia Moscow và Đại học Nanyang (Singapore). Nhà sử học, và Đông phương học. Đã từng là phóng viên khu vực Đông Nam Á (Malaysia, Singapore, Philippines) trong những năm 1988-1991 của tờ báo Sự thật (Pravda). Từ năm 2001 là bình luận viên chính trị của RIA Novosti.
Kosyrev cũng hoàn toàn bỏ qua những khác biệt về bề ngoài, ngôn ngữ, văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc, để đưa đến một kết luận: tình hình làm cho Việt Nam trở thành một công cụ thuận tiện để tạo ra vấn đề cho Trung Quốc - như Ukraine đối với Nga.

Tiếp theo, trong bài báo nêu trên, tác giả thông tin về dự định muốn quay lại khu vực Đông Nam Á của Mỹ, và kết luận, tình hình hoàn toàn giống như những điều Mỹ đã làm ở Gruzia và Ukraine đối với Nga.

Chỉ có điều, vai đối trọng với Mỹ được giao cho Trung Quốc. Người đọc có thể thấy ngay – Kosyrev muốn biện hộ cho các hành động vũ lực trong tương lai gần của Trung Quốc, mong muốn hết sức ấu trĩ và hiếu chiến của tác giả.

Và trong phần kết luận, tác giả bài báo cho rằng, việc một số lượng kỷ lục các thỏa thuận được ký giữa Nga và Trung Quốc còn tốt hơn mọi tuyên bố to tát, vì những tuyên bố to tát này là dành cho công chúng, mị dân. Còn Nga và Trung Quốc thì hành động theo những gì họ thấy cần.

Không thể hiểu nổi một hãng tin được người Việt luôn xem là nguồn thông tin tin cậy về quan điểm của nước Nga đối với Việt Nam, khu vực và thế giới lại có thể dễ dàng quay lưng, phản bội lại niềm tin đến vậy.

Ngay từ khi được đưa lên trang web của RIA Novosti, bài báo này đã khiến cho nhiều người đọc Việt Nam, và không chỉ Việt Nam phẫn nộ. Những bình luận của độc giả ngay dưới bài báo, cũng như trên trang Facebook của RIA cũng cho thấy điều này.

Lưu Hải Hà