Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014

ĐÔI LỜI VỀ "CỜ VÀNG, CỜ ĐỎ" CỦA Mr. DO


nguồn Hòa Bình
ảnh:LN:

Đôi lời về “cờ vàng, cờ đỏ” của Mr.Do

Hòa hợp dân tộc là đúng, là việc phải làm và sẽ làm được.

Hoàng Sa phải được lấy lại, là việc phải làm và sẽ làm được (“dù 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa” ). Nhưng không thể bằng cách lôi cái hồn ma lên đặt ngang với cái đang thực tế hiện hữu.

Cờ vàng ba sọc đỏ đâu phải là lá cờ đại diện cho người Việt ở nước ngoài, hay ở bất cứ đâu. Người Việt ở trong nước cũng như Việt kiều ở mọi nơi khác trên thế giới chỉ có một lá cờ đỏ sao vàng đại diện cho một nước Việt Nam thống nhất từ lâu nay. Những ai không thừa nhận điều này chỉ bởi sự thù hằn còn ăn sâu trong tâm trí của họ, sự thù hằn khiến họ tự biến mình thành người không Tổ quốc.

Ý kiến "Hà Nội cần công khai thừa nhận tính hợp pháp của chính quyền Sài Gòn thời trước 1975, qua đó thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp của chính quyền Sài Gòn đối với Hoàng Sa và Trường Sa nhằm vô hiệu hóa công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng" không hề là cái "chúng ta hay nói" mà chỉ là một ý kiến chẳng đặng đừng trong số nhiều ý kiến khác nằm trong nỗ lực chung lấy lại Hoàng Sa mà thôi.

"Sự thừa nhận đó cũng đồng nghĩa với việc phi nghĩa hóa hành động chiến tranh của chính quyền do Hà Nội lãnh đạo trong Chiến tranh Việt Nam ... nó không thể được công khai trong ngày một ngày hai". Đã nhìn nhận vấn đề như vậy thì phải khẳng định ngay rằng không phải là “không thể trong ngày một ngày hai” mà là KHÔNG BAO GIỜ, Mr. Do ạ.

Tôi nhìn thấy cái tâm tốt của Mr. Do, nhưng cái trí của Mr. Do trong bài này cần xem lại.

Càng thấm thía cái thâm độc của Richard Nixon khi áp dụng chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" cuộc chiến xâm lược Miền Nam Việt Nam của Mỹ trước đây. Nó khiến cho ngay cả người có trí tuệ và kiến thức hơn người thường như Mr. Do cũng bị lẫn trí đến mức rối lẫn lịch sử như thế (tôi tin là Mr. Do rối lẫn chứ không phải cố tình bóp méo, xuyên tạc như CHHV), ở góc độ đó phải thừa nhận Nixon là một thiên tài.

Hòa hợp dân tộc là bằng chính sách đối xử rộng mở của chính quyền, bằng sự nhìn nhận công bằng, minh bạch về lịch sử, bằng sự chân thành tránh đi thái độ duy cảm làm tổn thương lẫn nhau, chứ không phải bằng sự vuốt ve mơn trớn, lộn trái lịch sử hòng làm dịu đi sự hằn học của những ai đó còn ôm nặng hận thù.

Tuy nhiên tôi chia sẻ điều này với Mr. Do “trong một chừng mực có thể chấp nhận, với một tâm thế lạc quan và đầy kỳ vọng thường thấy vào dịp đầu năm, nhìn hình ảnh lá cờ vàng và cờ đỏ song hành ở một nơi chốn đang còn khiêm tốn kia, tôi có một niềm tin le lói rằng, dù sao thì cỗ xe Việt Nam đang lăn bánh về phía trước, phía LỢI ÍCH DÂN TỘC ĐƯỢC ĐẶT LÊN HÀNG ĐẦU ”, khi nhìn nhận hình ảnh đó như một sự “do dự tích cực” trong cái nhìn còn ngập ngừng e ngại của một bộ phận đồng bào việt kiều về Tổ quốc hữu hình của mình.

Và cũng như Mr. Do, tôi lạc quan khi nhìn vào câu khẩu hiệu “ Đặt Lợi Ích Dân Tộc Lên Hàng Đầu”, bất kể là nó hiện lên ở đâu, ngay cả khi nó nằm giữa hai lá cờ “âm dương” song hành một cách khiên cưỡng. 

(“Cờ vàng, cờ đỏ” của Mr.Do đọc tại đây)

TRUNG QUỐC HÀNH XỬ BẤT KHẢ DỰ ĐOÁN

Trung Quốc hành xử bất khả dự đoán

Ảnh: Tàu cá ngư dân VN bị Hải quân TQ đâm chìm trong chính ngư trường của mình

(Chinhphu.vn) - Những hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông ngày càng cho thấy nước này áp dụng một chính sách không theo nguyên tắc nào, bất nhất và mâu thuẫn, chuyên gia về luật thuộc Hải quân Mỹ Ryan Santicola nhận xét.

Chuyên gia Ryan Santicola nhấn mạnh: Mỗi khi nhắc đến giải quyết các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, Trung Quốc thường lặp đi lặp lại nguyên tắc “đàm phán song phương với những nước có liên quan trực tiếp”. Thực ra đây là cái cớ để Trung Quốc ngăn cản sự can dự của bất cứ bên thứ ba nào và không chấp nhận vụ kiện về chủ quyền biển đảo mà Philippines đưa lên Tòa án trọng tài quốc tế. 

Đây cũng là lý lẽ mà Bắc Kinh đưa ra để chần chừ trong tiến trình đàm phán về bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) với ASEAN. Nhưng trên thực tế, Trung Quốc cũng không đếm xỉa đến việc thực hiện nguyên tắc song phương. Chính sách ngoại giao của Trung Quốc trên Biển Đông theo kiểu mỗi thứ một tí, đa phương, song phương và gần đây nhất là đơn phương, đạt đến một mức độ không thể hiểu được về tính bất khả dự đoán.

Nói về đa phương, Trung Quốc nói sẽ tuân thủ các cam kết kể cả ràng buộc và không ràng buộc, nhưng thực ra không có ý định tuân thủ. Năm 1996, Trung Quốc ký tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) nhưng vẫn tiếp tục đưa ra các tuyên bố chủ quyền đi ngược lại cơ chế giải quyết của công ước. 

Với cam kết không ràng buộc, Trung Quốc ký Tuyên bố về Ứng xử Biển Đông (DOC) năm 1982, nhưng bằng những hành động quấy nhiễu ngư dân các nước láng giềng, đoạt quyền kiểm soát bãi cạn Scarbourough, cải tạo đất đai ở bãi đá Gạc Ma tại Trường Sa, Trung Quốc đang phớt lờ cam kết chính trị về việc tránh làm phức tạp thêm tình hình, gây ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định khu vực.

Nói về song phương, cái mà Bắc Kinh luôn khẳng định là nguyên tắc trong giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông, Trung Quốc cũng không tuân thủ. Đầu tháng 5, Trung Quốc đơn phương đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gần quần đảo Hoàng Sa. Hành động này diễn ra bất chấp thỏa thuận song phương năm 2011 về Các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển mà lãnh đạo hai nước Việt - Trung đã đồng ý nhằm giải quyết tranh chấp thông qua "bàn thảo và thương lượng hữu nghị".

Tương tự, năm 2012, Trung Quốc đã không thực hiện kết quả đàm phán tay đôi với Philippines mà theo đó hai bên đều phải rút các tàu của mình khỏi bãi cạn Scarborough. Nói cách khác, các tuyên bố về song phương hay đa phương của Trung Quốc đều phải đầu hàng trước hành động của họ - hành động đơn phương.

Chuyên gia Santicola cho rằng, sau khi xem xét việc Trung Quốc thực hiện các cam kết liên quan đến chính sách đối ngoại, ông nhận thấy điều kiên định nhất của họ là theo đuổi chính sách không kiên định, chiến lược không rõ ràng. Điều này khiến người ta nghi ngờ liệu Trung Quốc có thực lòng trong thương lượng và diễn giải các thỏa thuận (ràng buộc cũng như không ràng buộc) với quốc tế hay không. Điều quan trọng hơn nữa là với một cường quốc khu vực có chính sách bất nhất như thế, liệu khu vực có được hưởng sự ổn định và hợp tác hay không.

Nguyễn Chiến

Trực tuyến họp báo: HÀNH ĐỘNG ĐƠN PHƯƠNG NGUY HIỂM CỦA TRUNG QUỐC KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN ĐƯỢC

Trực tuyến họp báo: 'Hành động đơn phương nguy hiểm của Trung Quốc không thể chấp nhận được


Fanpage Thanh Niên

(TNO) Trong buổi họp báo tại Hà Nội ngày 28.5, Thượng nghị sĩ Benjamin Cardin, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á - Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, cho biết Mỹ phản đối hành động "gây hấn" của Trung Quốc trên biển Đông.

Thượng nghị sĩ Benjamin Cardin tại buổi họp báo chiều ngày 28.5 tại Hà Nội - Ảnh: Trường Sơn

Cuộc họp báo bắt đầu lúc 13g30 tại Đại sứ quán Mỹ.

Đối với sự việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng biển VN, ông Cardin cho biết Mỹ phản đối hành động có tính gây hấn ở TQ ở biển Đông.

"Chúng tôi tin tưởng vấn đề cần phải được giải quyết trong hòa bình và các bên phải kiềm chế và không nên có các hành động mang tính gây hấn ở biển Đông", ông Cardin cho hay.

VietNamNet: Ông có kế hoạch gặp phía Trung Quốc để bàn về các hoạt động ngày một gia tăng ở biển Đông của họ không?

Thượng nghị sĩ Benjamin Cardin: Tôi chắc chắn sẽ có một cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc. Chúng tôi sẽ tham gia thảo luận và sẽ có cuộc gặp riêng để bàn về vấn đề an ninh.

Về chính sách xoay trục ở châu Á, Mỹ muốn có quan hệ vững mạnh với tất cả các nước trong khu vực, trong đó có cả Trung Quốc.

Chúng tôi vẫn muốn Trung Quốc phát triển vững mạnh và độc lập. Tôi sẽ trao đổi với Trung Quốc để nói rằng họ cần xuống thang.

Lao Động: Ông nghĩ gì về hành động đâm chìm tàu cá Việt Nam của Trung Quốc?

"Hành động đơn phương nguy hiểm của Trung Quốc là hành vi nguy hiểm không thể chấp nhận được và mang lại nhiều rủi ro về tài sản và nhân mạng", Thượng nghị sĩ Benjamin Cardin - Ảnh: Trường Sơn

Thượng nghị sĩ Benjamin Cardin: Phía Việt Nam không đề nghị chúng tôi tư vấn và đưa ra lời khuyên; do vậy, tôi không thể trả lời câu hỏi này.

Hành động đơn phương nguy hiểm của Trung Quốc không xảy ra ở gần giàn khoan (Hải Dương-981) mà cách xa nhiều dặm. Đó là hành vi nguy hiểm không thể chấp nhận được và mang lại nhiều rủi ro về tài sản và nhân mạng.

Mọi việc cần làm là xuống thang tình hình vì nó rất nguy hiểm. Mỹ không đưa ra quan điểm về các tuyên bố chủ quyền, nhưng Mỹ chống lại các hành vi đơn phương gây hấn.

Các nước liên quan cần giải quyết qua các cơ chế hoà bình và theo tiêu chuẩn quốc tế để làm giảm căng thẳng thay vì leo thang căng thẳng.

“Chúng tôi hoàn toàn phản đối các hành vi đơn phương gây hấn ảnh hưởng an ninh hàng hải. Trung Quốc đã thực hiện các hành vi đó. Đó là các hành vi sai trái”, ông Cardin trả lời câu hỏi phóng viên Tuổi Trẻ.

Thượng nghị sĩ Cardin cho biết thêm một nghị quyết về hành động Trung Quốc trên biển Đông đã được Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ thông qua và sẽ sớm được trình lên Thượng viện để xem xét thông qua.

VnExpress: Ông có bình luận gì về hành động di chuyển giàn khoan của Trung Quốc?

Thượng nghị sĩ Benjamin Cardin: Chúng tôi nhận thức được rằng việc này vẫn nằm trong khu vực thềm lục địa của Việt Nam.

Trong vụ tàu cá chìm, qua sự xuất hiện các tàu quân sự, chúng tôi thúc giục Trung Quốc xuống thang căng thẳng.

Ngoài vấn đề an ninh hàng hải, chúng tôi còn bàn về nhiều vấn đề khác.

Thanh Niên: Hành động của Trung Quốc ở biển Đông có phải xuất phát từ việc Mỹ đang vướng mắc các vấn đề khác và không có nguồn lực?

Thượng nghị sĩ Benjamin Cardin: Tôi hiểu câu hỏi này, nhưng tôi không theo sát vấn đề. Mỹ luôn nhất quán trong việc chỉ trích các hành vi đơn phương của Trung Quốc.

Chúng tôi nhất quán trong vấn đề an ninh hàng hải và nhất quán trong việc ủng hộ ASEAN tiến tới thành lập Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC).

Tại cuộc họp báo, Thượng nghị sĩ Cardin cho biết thêm một nghị quyết về hành động Trung Quốc trên biển Đông đã được Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ thông qua và sẽ sớm được trình lên Thượng viện để xem xét thông qua.

Trước đó, vào ngày 27.5, tại trụ sở Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhiệt liệt chào mừng ông Cardin, theo TTXVN.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nêu rõ: Đây là hành vi vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của VN; vi phạm pháp luật quốc tế nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển năm 1982; vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC).

Thượng viện Mỹ cực lực phản đối hành vi khiêu khích của Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN; bày tỏ mong muốn các bên tích cực giải quyết vụ việc trên cơ sở luật pháp quốc tế, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực, ông Cardin cho biết vào ngày 27.5.

Thượng nghị sĩ Cardin nhấn mạnh Mỹ đặc biệt coi trọng quan hệ song phương với VN, mong muốn tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực với VN, đặc biệt là quan hệ giữa hai Quốc hội.

Trường Sơn - Phúc Duy - Hoàng Uy

TUYÊN BỐ NGÔNG CUỒNG VÔ HỌC THỨC CỦA TRUNG QUỐC

Tuyên bố xuyên tạc, nực cười, ngông cuồng đã vạch rõ mặt thật của Trung Quốc

Tiếp tục chiến dịch xâm lược và đánh lừa dư luận, bôi nhọ Việt Nam, Trung Quốc cho phát ngôn viên ngoại giao Tần Cương liên tục lên tiếng về Biển Đông. 

Đài truyền hình CCTV Trung Quốc đưa tin, ngày 27 tháng 5 năm 2014, chính phủ Trung Quốc thông qua phát ngôn viên ngoại giao của họ là Tần Cương đã tuyên truyền bịa đặt, lừa đảo cả dư luận trong nước và quốc tế về tình hình Biển Đông hiện nay. Xin trích dẫn chi tiết những tuyên bố ngông cuồng này để độc giả tham khảo, cho ý kiến:

Trung Quốc cho rằng, hoạt động khoan thăm dò của doanh nghiệp Trung Quốc tại vùng biển quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam-PV) “đã triển khai 10 năm”.

Tiếp tục chiến dịch bịa đặt, xuyên tạc, đánh lừa dư luận mà Trung Quốc đã triển khai trong rất nhiều năm qua, ông Tần Cương cho rằng: “Các hoạt động trong đó có khoan thăm dò lần này đều tiến hành ở vùng biển gần của Trung Quốc không có tranh chấp, hợp lý, hợp pháp, hoàn toàn bình thường”.

“Theo kế hoạch, giàn khoan chuyển địa điểm, bắt đầu hoạt động giai đoạn hai. Đây là một phần của kế hoạch khoan thăm dò tổng thể lần này. Hoạt động khoan thăm dò lần này bắt đầu từ ngày 2 tháng 5, dự kiến kết thúc vào giữa tháng 8”.

Về việc Trung Quốc cho tàu đâm chìm tàu cá Việt Nam, Tần Cương có nói đến nhưng lại bịa đặt các yếu tố không có trong tình huống và sự thật, cho rằng: “Ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa, 1 tàu cá Việt Nam đã cố tình xông vào khu cảnh giới của giàn khoan Hải Dương-981 của Trung Quốc, đồng thời va đập vào mạn tàu bên trái của tàu cá Trung Quốc đang hoạt động ở khu vực lân cận nên bị lật úp, nhân viên trên tàu Việt Nam đều đã được cứu” (thực tế là Trung Quốc cho tàu của họ hung hăng đâm húc).

Trung Quốc dịch chuyển giàn khoan Hải Dương-981 tới vị trí khác, nhưng vẫn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Trung Quốc dịch chuyển giàn khoan Hải Dương-981 tới vị trí khác, nhưng vẫn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Tần Cương tiếp tục giọng điệu lừa đảo, lòe bịp thiên hạ, cho rằng: “Nguyên nhân trực tiếp của sự kiện này là Việt Nam bất chấp sự giao thiệp, cảnh cáo và can ngăn nhiều lần của Trung Quốc, cố tình quấy rối hoạt động bình thường của doanh nghiệp Trung Quốc và tiến hành các hành động nguy hiểm”.

“Chúng tôi tiếp tục thúc giục Việt Nam tôn trọng chủ quyền, quyền lợi chủ quyền và quyền quản lý của Trung Quốc, lập tức chấm dứt các hoạt động quấy rối, phá hoại có liên quan, đặc biệt là tránh có các hành động nguy hiểm trên biển, thiết thực bảo vệ an toàn hàng hải và trật tự sản xuất nghề cá” – một tuyên bố không biết ngượng mồm khi tình hình thực tế hoàn toàn ngược lại.

Tần Cương đe dọa và lừa đảo: “Sự thực chứng minh, Việt Nam tiến hành quấy rối và phá hoại phi pháp đối với hoạt động bình thường của Trung Quốc là uổng công vô ích, cuối cùng lợi ích tự thân của Việt Nam sẽ bị thiệt hại. Quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc, không tồn tại tranh chấp”.

Tần Cương vừa đấm vừa xoa, dụ dỗ kèm theo đe nẹt: “Chúng tôi thúc giục Việt Nam không nên tiếp tục tiến hành quấy rối vô lý, xuất phát từ đại cục bảo vệ quan hệ hai nước và ổn định khu vực, chấm dứt tiến hành quấy rối và phá hoại hoạt động bình thường của Trung Quốc. Tình hình tiếp theo phát triển thế nào, Trung Quốc phản ứng như thế nào sẽ tùy thuộc vào Việt Nam làm như thế nào”.

Ngày 27 tháng 5 năm 2014, Chánh văn phòng nội các Nhật Bản đã lên tiếng về vấn đề Biển Đông

Ngày 27 tháng 5, Chánh văn phòng Nội các Nhật Bản Yoshihide Suga và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera đã phát biểu về việc Trung Quốc cho tàu đâm chìm tàu cá của Việt Nam, cho rằng nước có liên quan (Trung Quốc) cần chấm dứt hành động đơn phương làm trầm trọng hơn căng thẳng.

Đồng thời, ngày 23 tháng 5, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe còn trả lời báo chí cho rằng, Trung Quốc đơn phương tiến hành khoan thăm dò “ở vùng biển mà Trung Quốc và Việt Nam đều chủ trương chủ quyền” (thực tế là vùng biển chủ quyền của Việt Nam, không hề có tranh chấp), làm cho quan hệ căng thẳng leo thang, Nhật Bản sẽ không cho phép thông qua thực lực hoặc đe dọa làm thay đổi hiện trạng.

Đối với vấn đề này, Tần Cương tiếp tục giọng điệu xuyên tạc, đánh lừa dư luận, cho rằng: “Quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc, hoạt động khoan thăm dò có liên quan của Trung Quốc được tiến hành ở vùng biển do Trung Quốc quản lý. Chúng tôi làm việc ở vùng biển của mình, không liên quan và không trêu chọc ai, lại có nước quấy rối vô lý, phi pháp, có nước còn nói ra nói vào. Đây là điều không hề có đạo lý, chúng tôi tuyệt đối không chấp nhận”.

Theo tuyên truyền xuyên tạc của ông Cương: “Nhà lãnh đạo Nhật Bản phát ngôn bưng bít (lừa dối) sự thật, đục nước béo cò, có dụng ý xấu, có thể nói là lo thiên hạ không bị loạn”.

Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera cũng lên tiếng về Biển Đông

Tần Cương chuyển sang nói xấu Nhật Bản và không quên tiếp tục lừa gạt dư luận, cho rằng: “Nhật Bản đừng quên, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc bị Nhật Bản dùng vũ lực xâm chiếm. Sau thắng lợi của Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Quốc đã khôi phục thực hiện chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Nhật Bản chưa từng đưa ra bất cứ dị nghị nào. Chúng tôi thúc giục Nhật Bản tôn trọng sự thực, chấm dứt đâm bị thóc chọc bị gạo, không nên tiếp tục phát biểu vô trách nhiệm”.

Theo Tần Cương thì Trung Quốc dùng thực lực để “bảo vệ chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước” (thực ra Trung Quốc đã và đang đi ăn cướp ở Biển Đông), Trung Quốc dùng thực lực để “thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển của thế giới” (nhưng thực ra, đối với Biển Đông hiện nay, Trung Quốc đang đe dọa nghiêm trọng, phá hoại hòa bình, ổn định, an toàn hàng hải ở khu vực và thế giới).

Theo Tần Cương thì “có quốc gia, có người đang hoang tưởng, Trung Quốc có thể nuốt trái đắng – chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia bị tổn hại”. Cương đe dọa thêm: “Nếu nói thực lực của Trung Quốc đang làm thay đổi cái gì, thì chính là làm thay đổi hoang tưởng này của quốc gia và người đó”.

Trước đó, ngày 26 tháng 5, cũng ông Tần Cương, phát ngôn viên ngoại giao được Trung Quốc cho đối mặt với báo giới, cũng giọng điệu xuyên tạc, đánh lừa dư luận về “bằng chứng lịch sử, pháp lý” đối với quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam, bị Trung Quốc dùng vũ lực xâm lược năm 1974).
Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida sắp thăm Việt Nam, hai bên sẽ tăng cường hợp tác để bảo vệ hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông.

Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida sắp thăm Việt Nam, hai bên sẽ tăng cường hợp tác để bảo vệ hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông.

Tần Cương xuyên tạc, nói: “Rất nhiều chứng cứ lịch sử (?) cho thấy, quần đảo Hoàng Sa từ cổ đã là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc, người Trung Quốc phát hiện sớm nhất, đặt tên sớm nhất, khai thác và làm ăn sớm nhất, tiến hành quan hệ và thực thi chủ quyền sớm nhất, người Trung Quốc là chủ nhân không thể tranh cãi của quần đảo Hoàng Sa”.

Ông ta dẫn chứng “lịch sử” bịa đặt, hết sức nực cười cho rằng, ngay từ thế kỷ 2 trước công nguyên, tức là thời nhà Hán, “người Trung Quốc đã hoạt động ở Biển Đông và đã phát hiển ra quần đảo Hoàng Sa”, người Trung Quốc “liên tục đến quần đảo Hoàng Sa khai thác, làm ăn. Có sử liệu chứng minh, thời nhà Đường, Tống của Trung Quốc, có người Trung Quốc tiến hành hoạt động đánh bắt ở quần đảo Hoàng Sa, hải quân Bắc Tống trước đây cũng đã đến tuần tra quần đảo Hoàng Sa. Điều này cho thấy Trung Quốc khi đó đã tiến hành quản lý hiệu quả quần đảo Hoàng Sa. Thời nhà Nguyên, nhà thiên văn học Quách Thủ Kính đã thiết lập điểm thiên văn ở quần đảo Hoàng Sa, chứng minh khi đó quần đảo Hoàng Sa đã thuộc lãnh thổ Trung Quốc”.

Theo lời xuyên tạc vô căn cứ của Tần Cương thì “trước giữa thập niên 70 của thế kỷ trước, Việt Nam “công khai và chính thức thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là của Trung Quốc, ông ta dẫn chứng: Vào năm 1956, người phụ trách Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nói với đại biện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam như vậy. Vào năm 1958, chính phủ Trung Quốc tuyên bố về độ rộng 12 hải lý thì chính phủ Việt Nam đã công nhận bằng công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đồng thời, theo Tần Cương thì trong nhiều văn kiện chính thức, sách giáo khoa, bản đồ của Việt Nam “đều nói rõ quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Quốc”.

Đồng thời, Tần Cương bôi nhọ Việt Nam cho rằng: “Nhưng sau năm 1975, Việt Nam đã vứt bỏ những cam kết trước đây, chuyển sang đưa ra yêu cầu chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa”. Tiếp tục giọng điệu bôi nhọ, nói xấu Việt Nam, Tần Cương cho rằng Việt Nam đã “bóp méo lịch sử, phủ nhận sự thực, lật lọng, thất tín bội nghĩa”, “mức tín nhiệm quốc tế của nước này rất thấp”.

Tần Cương lại đe dọa: “Tôi cũng muốn tiếp tục nhấn mạnh, quyết tâm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của chính phủ và nhân dân Trung Quốc là kiên định, không thay đổi”.Tần Cương cố gắng đưa từ “nhân dân TQ” vào để đánh lừa, kích động dư luận trong nước.

Giàn khoan Hải Dương-981 Trung Quốc

Trên đây là toàn bộ phát biểu của phát ngôn viên ngoại giao được Trung Quốc bố trí để ứng phó với việc Việt Nam kiên quyết phản đối Trung Quốc xâm lược và tình hình dư luận quốc tế, những diễn biến quan hệ khu vực đang bất lợi cho Trung Quốc hiện nay.

Phải nhấn mạnh rằng, những lời phê phán Việt Nam mà Trung Quốc đưa ra mới là bộ mặt thật của Trung Quốc, hành động dùng vũ lực xâm lược quần đảo Hoàng Sa năm 1974 là sự thực lịch sử và không thể chối cãi, chủ quyền mà Trung Quốc áp đặt đối với quần đảo này hay chủ trương “đường lưỡi bò” bất hợp pháp của Trung Quốc chưa bao giờ được quốc tế công nhận.

Trung Quốc nói lịch sử của họ có ghi chép về chủ quyền của họ đối với quần đảo Hoàng Sa, nhưng chính lịch sử Trung Quốc đã bác bỏ điều này. Trung Quốc là nước ghi chép lịch sử rất rõ ràng, nhưng các sách sử của Trung Quốc, nhất là các sách sử chính thống của các triều đại Trung Quốc chưa từng ghi chép quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa là của Trung Quốc, điều này đã được các nhà nghiên cứu Việt Nam khẳng định.

Sự thực là như vậy, và sự thực về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam còn được chứng minh bằng rất nhiều tài liệu, bản đồ, trong đó có ghi chép của các nhà hàng hải, nghiên cứu của châu Âu. Gần đây, Thủ tướng Đức Merkel đã tặng cho Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình một bản đồ cổ về Trung Quốc, trong đó không có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Còn công thư của cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng rõ ràng đã không hề nói đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi đó, khi viết công thư ấy, quần đảo Hoàng Sa đang nằm dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam cộng hòa khi đó, và năm 1974 thì Trung Quốc đã sử dụng vũ lực thực hiện một cuộc chiến đẫm máu, xâm lược toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Đến năm 1988, Trung Quốc tiếp tục sử dụng vũ lực xâm lược đá Gạc Ma của Việt Nam, làm rất nhiều chiến sĩ hải quân Việt Nam hy sinh…

Tàu chiến Trung Quốc tham gia xâm lược vùng biển Việt Nam

Hiện nay, hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 cùng với các tàu chiến, máy bay quân sự và nhiều loại tàu khác tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam chẳng khác nào một chiến dịch xâm lược đối với vùng biển chủ quyền của Việt Nam.

Sở dĩ Việt Nam chưa dùng đến phương pháp phi hoà bình để bảo vệ chủ quyền chính đáng của mình là do Việt Nam muốn hòa hiếu, không muốn chiến tranh, nhưng Việt Nam không vì thế mà nhân nhượng, nhún nhường. Việt Nam sẽ kiên quyết đấu tranh để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, không đổi cái quyền thiêng liêng đó đổi lấy hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng: Không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông, lệ thuộc

Những xuyên tạc, bịa đặt, đánh lừa dư luận, vu cáo, đổ lỗi, bôi đen… của Trung Quốc đối với Việt Nam về vấn đề Biển Đông đã được tiến hành từ lâu, có hệ thống và lúc cao trào, lúc lắng dịu dưới bàn tay điều khiển của chính quyền họ. Rõ ràng, điều này không thể mơ hồ. Hơn nữa, với một loạt lời nói và hành động của Trung Quốc trong nhiều năm qua liên quan đến vấn đề Biển Đông rõ ràng là có âm mưu độc chiếm Biển Đông, điều này luôn nhất quán.

Cần phải nhấn mạnh rằng, những hành động của Trung Quốc trước đây và hiện nay thực sự đang đe dọa nghiêm trọng chủ quyền, quyền lợi chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam cũng như các nước xung quanh Biển Đông, thậm chí ở những vùng biển xa hơn. Với “chủ nghĩa thực dân mới”, chủ nghĩa bành trướng như vậy, Trung Quốc cũng đang đe dọa nghiêm trọng hòa bình và ổn định khu vực.

Theo Giáo Dục

VÀI LỜI BÀN THÊM VỀ CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG VÀ CÁI GỌI LÀ "VIỆT NAM CỘNG HÒA"

Lúc đầu tôi tính đặt tựa bài này là "Vài lời bàn thêm về một luận điểm kỳ quặc, ngu dốt đến khó tin của Đỗ Hùng, PTTK báo Thanh Niên" nhưng nghĩ lại thấy người này không xứng đáng để được đặt tên lên tựa bài, nên thôi.


Tôi chỉ chú ý đến người này từ bài viết "Quyết liệt vì Hoàng Sa" năm ngoái, thực chất chỉ là một sản phẩm "2 lần xào lại" từ các "tài liệu" mà Trần Đỗ Cẩm và Vũ Hữu San, 2 người thuộc phe AQ trong những người cựu quân nhân Sài Gòn, xào lại từ các tài liệu chiến tranh chính trị (tâm lý chiến) của ngụy quyền Sài Gòn.

Sau đó đi đâu cũng thấy bà con chửi Đỗ Hùng nhiều quá, mà chửi rất đúng. Và tôi cũng không ưa con người này, nhưng chưa biết nhiều về anh ta, chỉ biết anh ta qua những vụ đó thôi.

Sau vụ "tổng phục dựng" thây ma vừa qua, có một số thành viên Facebook đi theo dõi tìm hiểu về nhân vật Đỗ Hùng này, đã tìm lại nhiều entry cũ của Đỗ Hùng và "share" một số nội dung phản động của Đỗ Hùng lại cho mọi người, trong đó có những dòng nói bóng gió xa gần không hay về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh ta chửi cả nhà sử học Lê Văn Lan, các trí thức chân chính và người dân, chụp mũ rằng họ đang "lên đồng", và muốn "phong thánh", "thần thánh hóa" Đại tướng.

Nhưng sau khi đọc bài này của blogger Nguyễn Thanh Tùng trên Lều Báothì mới thấy thêm những ý kiến mà đáng lý một người phó TTK cho một tờ báo như Đỗ Hùng thì không nên ngu dốt tới mức độ đáng kinh ngạc như thế. Trong đó có ý kiến rằng Nhà nước Việt Nam phải phi nghĩa hóa cuộc chiến tranh trước năm 1975 để công nhận tính "hợp pháp" của cái gọi là "VNCH" thì mới vô hiệu hóa được công hàm Phạm Văn Đồng và công nhận "quyền sở hữu hợp pháp" của "VNCH" ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trước hết phải nói đây là một ý kiến ngớ ngẩn, vô duyên, ngu xuẩn và dốt nát hiếm thấy ở một người phó TTK của một tờ báo. Nó như là một báo động đỏ về những gì đang xảy ra trong nội bộ báo Thanh Niên và những khuất tất, tiêu cực trong quá trình "thăng tiến", luồn cúi, chạy chọt, leo trèo lên chức vụ, vị trí đó trong tờ báo này. Giỏi khôn vặt và nịnh bợ, kém nghiệp vụ và tri thức, thậm chí cả đạo đức nghề báo.

Nếu như đây là một ý kiến của một cậu bé mới lớn hay là một người nhà quê lên tỉnh nào đó, thì chúng ta có thể hiểu và thông cảm được. Nhưng nó lại phát ra từ miệng của một người đường đường là phó TTK của một tờ báo lớn thì phải nói đây thật sự là một báo động về trình độ nhân sự, công tác cán bộ của báo Thanh Niên, về trình độ, kiến thức chính trị, luật pháp, lịch sử nói chung của tờ báo này.

Thứ nhất: Làm sao Đảng, Nhà nước, Chính phủ VN hiện tại có thể công nhận hay không công nhận, thừa nhận hay không thừa nhận tính hợp pháp của chính quyền Sài Gòn? Muốn biết nó hợp pháp hay không thì phải căn cứ vào luật pháp Việt Nam trong giai đoạn chính quyền Sài Gòn tồn tại (1949-1955-1975). Tức là căn cứ vào luật pháp Việt Nam từ năm 1946 khi nước Việt Nam có Quốc hội và Hiến pháp đầu tiên, trong lúc trên lãnh thổ Việt Nam không tồn tại một quốc gia, nhà nước, quốc hội, hiến pháp, luật pháp nào khác!

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1946 đã khẳng định chủ quyền một cách xuyên suốt toàn bộ nước Việt Nam theo các hiến pháp Việt Nam đến nay, bắt đầu từ hiến pháp 1946 được thông qua bởi Quốc hội Việt Nam khóa I. Năm 1959, cái gọi là "VNCH" gián tiếp bị đưa vào diện phản bội Tổ quốc vào trong Hiến pháp qua chương I điều VII:"Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc." Các hiến pháp sau năm 1975 cũng nói về hai cuộc kháng chiến với ý nghĩa là những cuộc kháng chiến chống xâm lược!

Do đó, nếu bảo "VNCH" là hợp pháp thì phải cạo sửa lịch sử, cạo sửa lại các hiến pháp đó và nói về hai cuộc kháng chiến với ý nghĩa là những cuộcchiến tranh xâm lược! Đồng thời phải làm một cuộc đốt sách chôn nhohoặc cách mạng văn hóa, đốt hủy sạch sẽ những văn kiện chính trị, văn kiện pháp lý của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam trong thời gian đó, chẳng những ở Việt Nam, mà còn cả thế giới. Bởi vì không chỉ có luật pháp, hiến pháp trong nước, mà các văn kiện chính trị, văn kiện ngoại giao, các bức thơ ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh gởi cho các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đều thể hiện rằng các chính quyền Bảo Đại, Diệm, Thiệu là các ngụy quyền bù nhìn tay sai của giặc xâm lược Pháp - Mỹ, và sau này Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính duy nhất của miền Nam Việt Nam.

Trên thực tế, trong thời gian tồn tại của ngụy quyền 1949-1975, không có luật nào của Việt Nam công nhận họ. Luật pháp Việt Nam, hiệp định Genève 1954, hiệp định Paris 1973 đều không có cái nào công nhận họ.

Xin lưu ý hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 không hề công nhận "Quốc gia Việt Nam" và "Việt Nam Cộng hòa" là các quốc gia, nhà nước. Thậm chí hiệp định Genève còn không công nhận "Quốc gia Việt Nam" là một thành phần chính trị, mà chỉ quy định nước Việt Nam tạm thời bị chia làm hai vùng tập trung quân sự và hai vùng kiểm soát, quản lý trong thời hạn 2 năm! Quân đội Pháp-ngụy tập trung về phía nam vĩ tuyến 17. Quân đội Việt Nam tập trung về phía bắc vĩ tuyến 17.

Còn hiệp định Paris chỉ nhượng bộ và công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là một thành phần chính trị trong cuộc tổng tuyển cử thành lập chính phủ ba thành phần dự kiến sẽ diễn ra theo điều khoản trong hiệp định này.

Nhưng Mỹ sau khi an toàn rút thực binh chiến đấu về nước, họ liền trở mặt, bội ước và phá hoại hiệp định Paris. Mỹ-ngụy đã không tuân thủ và thực thi đầy đủ các điều khoản khác trong hiệp định này, trong đó có điều quy định tổ chức tổng tuyển cử thành lập chính phủ ba thành phần. Do đó, hiệp định này không còn giá trị, không còn hiệu lực.

Như vậy, "VNCH" có hợp pháp hay không là phải căn cứ trên luật pháp Việt Nam trong thời gian "VNCH" tồn tại, chứ làm sao Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội Việt Nam ngày nay có thể làm gì được? Nếu Nhà nước, Quốc hội VN ngày nay có thể công nhận với không công nhận tính hợp pháp của "VNCH" thì hóa ra luật pháp VN là luật rừng à? Hóa ra Đảng đứng trên luật pháp?

Thứ hai: Chẳng những ý kiến "công nhận tính hợp pháp" nói trên là một ý kiến mất trí, điên rồ, hoang tưởng, phi thực tế, bất khả thi, thuộc diện thần kinh chính trị, mà nó còn có thể gây hại đến chủ quyền của nước CHXHCN Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một là vì trong thời gian "VNCH" chiếm đóng, kiểm soát, quản lý hai quần đảo này, Trung Quốc, Đài Loan và Philippines đã "gặm nhấm" một phần rất lớn, và nhiều lần "VNCH" không hề lên tiếng phản đối trong khi những nơi đó đang trong vùng kiểm soát của họ.

Hai là vì bản thân "VNCH" ngày nay đã không còn tồn tại. Nếu bảo "VNCH" là người "sở hữu" Hoàng Sa, thì ngày nay Trung Quốc phải trả Hoàng Sa lại cho ai?

Nếu nói theo kiểu của Đỗ Hùng thì "VNCH" là một quốc gia, nhà nước "hợp pháp", thì có nghĩa là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kẻ xâm lược "VNCH", là một quốc gia bên ngoài xâm lược thâu tóm quốc gia khác bằng vũ lực, và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là kẻ phiến loạn, và Quân đội Nhân dân Việt Nam là một đội quân xâm lược, quân Giải phóng là phiến quân. Vậy thì việc gì Trung Quốc phải trả lại Hoàng Sa cho CHXHCN Việt Nam? Như vậy, luận điệu của Đỗ Hùng sẽ gây khó khăn cho chủ quyền của CHXHCN Việt Nam, bởi vì CHXHCN Việt Nam là thừa kế của VNDCCH và CHMNVN!

Nếu cố gắng lừa dối bản thân rằng "VNCH" là một quốc gia, thì làm cách nào chuyển giao "chủ quyền" (danh nghĩa) của chính quyền Sài Gòn về tay CHXHCN Việt Nam, làm cho nó trở thành chủ quyền của CHXHCNVN? Rất khó! Bởi vì kiểu nào cũng nói không xuôi: Nếu lập luận rằng chính quyền Sài Gòn đã bàn giao chính quyền lại cho Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, vì vậy Trung Quốc phải trả lại Hoàng Sa cho CHXHCN Việt Nam, thì cũng không ổn. Bởi lẽ:

- Thực tế không hề có một cuộc bàn giao chính quyền hay bàn giao quyền lực nào cả. Như đại úy Phạm Xuân Thệ đã tuyên bố tại dinh tổng thống ngụy quyền: "Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Các ông không còn gì để bàn giao".

- Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước không kết thúc bằng một cuộc đầu hàng thật sự và sau đó bàn giao chính quyền, mà kết thúc bằng một chiến dịch quân sự và giành lại chính quyền, theo cách nói khi đó là "cướp chính quyền", dĩ nhiên cướp ở đây là cướp lại chính quyền từ tay Mỹ.

Ngụy quyền chỉ đầu hàng trong sự thoi thóp sau khi ngụy quân đã tháo chạy và sắp tan rã, và họ không còn năng lực chống trả. Sự làm chủ hoàn toàn miền Nam của VNDCCH và CHMNVN là thành quả của một chiến dịch quân sự, một biện pháp vũ lực, sử dụng quân đội và các lực lượng vũ trang và giành chiến thắng, chứ không phải là từ một sự đầu hàng tự nguyện và sát nhập hòa bình. Khi đó ở Sài Gòn có rất nhiều phóng viên chiến trường quốc tế và ai cũng thấy được chuyện gì đã diễn ra.

- Đặt giả thuyết có thể miễn cưỡng coi như là "tổng thống" Dương Văn Minh đầu hàng thì có thể tạm coi là "bàn giao chính quyền", thì nó vẫn chỉ có giá trị ở những vùng mà ngụy quân phụ trách kiểm soát và ngụy quyền phụ trách quản lý thay cho Mỹ. Hoàng Sa lúc đó ở ngoài tầm kiểm soát của chính quyền Dương Văn Minh, mà lúc đó đang do Trung Quốc chiếm đóng, kiểm soát, quản lý.

Bà Monique Chemillier-Gendreau, nữ giáo sư thạc sĩ ngành công pháp và chính trị học của trường Đại học Paris VII - Denis Diderot của Pháp, trong một tài liệu về chủ quyền Hoàng Sa và pháp lý quốc tế, đã ghi nhận: "Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không có quyền lực." Năm 1975, ngụy quyền Sài Gòn không kiểm soát, quản lý Hoàng Sa. Do đó họ không thể chuyển nhượng hay bàn giao chủ quyền đối với Hoàng Sa lại cho Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

oOo

Nếu giải quyết theo cách thừa nhận rằng Hoàng Sa là chủ quyền lãnh thổ thuộc sở hữu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam đang bị Mỹ-ngụy xâm lược chiếm đóng, thì dù vẫn khó khăn, nhưng ít ra còn có đối tượng rõ ràng cho Trung Quốc trả lại Hoàng Sa: CHXHCN Việt Nam, thừa kế của VNDCCH và CHMNVN.

Tuy nhiên, giả sử nếu có tranh tụng tại tòa án quốc tế, thì đương nhiên tòa sẽ áp dụng luật quốc tế, chứ làm sao có thể dùng luật pháp của một phía Việt Nam? Luật pháp quốc tế sẽ xem cả 3 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và "VNCH" với tư cách là 3 quốc gia với các chính phủ, quân đội, quốc kỳ, quốc ca, đồng bạc, và vùng kiểm soát, quản lý khác nhau, và đều có sự công nhận và quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới. "VNCH" nhờ được Mỹ dùng sức mạnh ngoại giao và quyền lực mềm của họ an bài, nên cũng được nhiều nước trên thế giới "quan hệ ngoại giao" xuất phát từ sự áp đặt của Mỹ.

Vấn đề này lại đưa đến cái dốt khác của Đỗ Hùng. Nếu có tranh tụng, thì sẽ áp dụng luật pháp quốc tế, trong khi đó một số chính phủ quốc tế đã công nhận và gọi "VNCH" là một "quốc gia" rồi, thì tại sao Nhà nước VN cần phải công nhận nữa?

Phải nói là Đỗ Hùng là một PTTK ngu và dốt từ A tới Z hiếm thấy. Một kẻ không biết phân biệt giữa luật pháp Việt Nam với luật pháp quốc tế thì làm báo kiểu gì?

Vấn đề nói trên thì Đỗ Hùng cũng đã bị một ông Việt kiều Mỹ chỉnh cho. Tuy nhiên, bài viết của ông Việt kiều đó có một điểm sai lầm then chốt rất nghiêm trọng nhưng Đỗ Hùng vẫn đưa lên báo Thanh Niên bản điện tử, làm xấu tờ báo, chỉ vì bài viết đó "quảng cáo" cho tính "chính nghĩa", "chính thống", "chính danh", "hợp pháp" của ngụy quyền Sài Gòn.

Đỗ Hùng không nghĩ là nếu ngụy quyền Sài Gòn quả thật đúng là có chính nghĩa, chính danh, chính thống, hợp pháp, thì cần gì Nhà nước VN phải công nhận hay không? Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam có cần "VNCH" công nhận mình đâu? Thậm chí, họ chỉ quan tâm tới việc chống Mỹ, nói chuyện với Mỹ, chứ quan tâm gì tới "VNCH"? Suốt thời gian hội nghị Paris về Việt Nam, có người nào bên phía VNDCCH và CHMNVN nói 1 câu nào với đại biểu "VNCH" đâu?

Điểm sai lầm then chốt nghiêm trọng của bài viết là đi "quảng cáo" cho một khái niệm không có thật, không tồn tại, không hiện hữu, không căn cứ trên bất kỳ pháp lý quốc tế nào, đó là khái niệm "2 nước Việt Nam", "2 quốc gia Việt Nam" hoặc "2 nhà nước Việt Nam".

Thật ra chưa bao giờ tồn tại khái niệm "2 nước Việt Nam", "2 nhà nước VN" hay "2 quốc gia VN". Đó là một khái niệm hoang tưởng, phản logic, phản khoa học, phi lý, bởi vì làm sao có thể tồn tại cái khái niệm "2 nước Việt Nam"?

Nếu không thể có khái niệm "có 2 ông Nguyễn Văn Tèo" thì cũng không thể có khái niệm "2 nước Việt Nam". Chỉ có thể có khái niệm "2 ông trùng tên Nguyễn Văn Tèo" hay khái niệm "2 nước trùng tên Việt Nam, đều có chữ Việt Nam trong tên nước chính thức", chứ làm sao có thể có cái gọi là khái niệm "2 nước Việt Nam"?

Đó là sự ngộ nhận then chốt nghiêm trọng của một số người đang nghiên cứu về vấn đề pháp lý quốc tế liên quan đến luật biển và tranh chấp chủ quyền. Sở dĩ họ nhầm lẫn như nói trên là vì họ ngộ nhận các danh từ "North Vietnam", "South Vietnam" mà các chính phủ nước ngoài gọi hai miền Việt Nam với ý nghĩa là hai đất nước, quốc gia khác nhau và "độc lập" với nhau. Nhưng các "nhà nghiên cứu" nghiệp dư này lại lầm tưởng các danh từ này được các chính phủ nước ngoài gọi với ý nghĩa là gọi 2 miền của 1 nước Việt Nam, hay 2 nước Việt Nam. Các "nhà nghiên cứu" này thấy có chữ "Vietnam" trong đó nên đã lầm tưởng như vậy, vô tình (hay cố ý?) gây ngộ nhận cho độc giả.

"North Vietnam" và "South Vietnam" chỉ là một cách gọi tên nước không chính thức của một số chính phủ nước ngoài, theo đó trên dãy đất này có các quốc gia khác nhau cùng có chữ "Việt Nam" trong tên nước chính thức. Một số người đã nhầm lẫn khái niệm 2 quốc gia khác nhau với khái niệm 2 nước Việt Nam, vốn là một khái niệm hoang tưởng và không tồn tại trên luật pháp quốc tế.

Xin lưu ý là các chính phủ nước ngoài gọi "Bắc Việt Nam" (North Vietnam), "Nam Việt Nam" (South Vietnam) như một danh từ, một tên nước không chính thức, và có ý nghĩa chính trị. Một số báo chí và cả đài truyền hình trong nước khi chuyển ngữ đã nhầm lẫn với từ "miền Bắc Việt Nam" (northern Vietnam), "miền Nam Việt Nam" (southern Vietnam), và có ý nghĩa vùng miền địa lý.

Nói chung, một số chính phủ nước ngoài cho rằng trên dãy đất này có 2 quốc gia khác nhau, và sau đó là 3 quốc gia khác nhau, với những "quốc kỳ", "quốc ca", "thủ đô", đồng bạc, chính phủ, quân đội, và vùng kiểm soát, quản lý khác nhau. Chứ không phải họ coi "Việt Nam có 2 nước", "VN có 2 nhà nước", "VN có 2 quốc gia", hay "2 nước Việt Nam", "2 nhà nước VN", "2 quốc gia VN".

Làm sao có thể tồn tại cái khái niệm Việt Nam có 2 nước, hay 2 nhà nước, hay 2 quốc gia? Đó là một khái niệm phi thực tế và bất khả thi, thậm chí ảo tưởng và loạn logic. Giống như bây giờ bảo nước A có 2 nước, nhà nước A có 2 nhà nước, quốc gia A có 2 quốc gia. Hoặc có 2 nước A, 2 nhà nước A, 2 quốc gia A. Hoặc ông A có 2 người, hay có 2 ông A, tức là một loại "logic" quái gỡ kỳ quặc vô phương lý giải.

Thí dụ: Trên bán đảo Triều Tiên có 2 đất nước, quốc gia khác nhau, một là nước CHDCND Triều Tiên, hai là nước Hàn Quốc, không tồn tại khái niệm 2 nước Triều Tiên, 2 nhà nước Triều Tiên, hay 2 quốc gia Triều Tiên. Cũng như các danh từ "North Vietnam" (Bắc Việt Nam), "South Vietnam" (Nam Việt Nam), các danh từ "North Korea" (Bắc Triều Tiên, Bắc Hàn), "South Korea" (Nam Triều Tiên, Nam Hàn) được các chính phủ quốc tế sử dụng như một tên nước không chính thức, và dùng nó với ý nghĩa là 2 đất nước, nhà nước, quốc gia khác nhau.

Ấn Độ và Pakistan sau khi chia cắt thì thành 2 quốc gia, làm gì có khái niệm 2 nước Ấn Độ, 2 quốc gia Ấn Độ, 2 nhà nước Ấn Độ?

Ngay cả CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) thì thế giới xưa nay cũng chỉ có hai hướng quan niệm, một là Trung - Đài là 2 quốc gia khác nhau, hai là nguyên tắc 1 nước Trung Hoa mà Bắc Kinh đang theo đuổi, chứ làm gì có khái niệm 2 nước Trung Hoa, 2 quốc gia Trung Hoa, 2 nhà nước Trung Hoa?

Dĩ nhiên, những vấn đề trên là nói đến các cách gọi của một số chính phủ nước ngoài. Còn lập trường, quan điểm, tâm tư tình cảm của dân tộc Việt Nam thì là khác. Đối với đại khối dân tộc Việt Nam thì chỉ có 1 nước Việt Nam bị giặc từ bên ngoài kéo quân đến xâm lược và phải đánh đuổi mọi ảnh hưởng của chúng đi để giành lại độc lập, hòa bình, thống nhất. Và thực tế những gì diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam cũng phù hợp với quan điểm, lập trường của dân tộc Việt Nam.

Thời Pháp, các chính phủ nước ngoài nói rằng tại Việt Nam có 2 nhà nước, Nam Kỳ là của nhà nước Đại Pháp, và nhà nước Đại Nam ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ do Pháp "bảo hộ". Họ nói rằng Việt Nam có 3 chế độ cai trị Bắc - Trung - Nam khác nhau. Nhưng đối với quan điểm và lập trường của đại khối dân tộc Việt Nam thì chỉ có 1 nước Việt Nam bị thực dân Pháp cai trị.

Thời Mỹ, các chính phủ nước ngoài nói rằng ở Việt Nam có 2 quốc gia khác nhau: Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam. Nhưng đối với quan điểm và lập trường của đại khối dân tộc Việt Nam thì chỉ có 1 nước Việt Nam bị giặc Mỹ xâm lược, và nửa bờ cõi Việt Nam bị đế quốc Mỹ thống trị.

Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 4, tháng 4 năm 1956, chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị, đã kết luận: "Chúng ta phải nhớ rằng, kẻ thù của nhân dân ta là đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng còn chiếm giữ một nửa đất nước ta và chúng đang chuẩn bị chiến tranh vì vậy chúng ta cần phải luôn luôn nắm vững ngọn cờ hòa bình, nhưng đồng thời phải luôn luôn nâng cao đề phòng và cảnh giác."

Đỗ Hùng và một số người trong báo Thanh Niên, cũng như một số người khác mà còn nghĩ mình là công dân Việt Nam nên nhớ: Trên lãnh thổ Việt Nam thì luật pháp Việt Nam là cao nhất, lớn nhất! Còn luật pháp quốc tế là một nguồn tham khảo quan trọng. Luật pháp quốc tế không đứng trên luật pháp và đạo lý Việt Nam.

Trong một số tranh chấp chủ quyền, các bên có thể sẽ phải căn cứ trên luật pháp quốc tế để tranh tụng tại tòa, nhưng điều đó không có nghĩa ông dựa vào đó rồi ông tự cho mình cái quyền đi lợi dụng chức quyền báo chí của mình để tuyên truyền thông điệp hạ thấp luật pháp và đạo lý Việt Nam, đặt quan điểm luật pháp và góc nhìn của nước ngoài lên trên nước nhà, đầu độc thế hệ trẻ.

Tại sao phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng?

Công hàm Phạm Văn Đồng là một công hàm có nội dung cho biết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ tôn trọng 12 hải lý lãnh hải Trung Quốc đúng theo thông lệ quốc tế, và thực tế sau này con số 12 hải lý đó đã được quy định trong pháp lý quốc tế, luật biển Liên Hiệp Quốc.

Công hàm đó không phải là một công hàm chuyển giao Hoàng Sa cho Trung Quốc, vì nội dung công hàm không có ý nghĩa như thế. Nội dung công hàm không có một chữ nào nói về vấn đề chuyển nhượng chủ quyền hay vấn đề Hoàng Sa.

Chủ quyền lãnh thổ là việc của Quốc hội, không phải việc của Thủ tướng. Thủ tướng không phải là người quyết định chủ quyền. Do đó, bức thơ này của thủ tướng Phạm Văn Đồng không có ý nghĩa về chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam. Luật pháp Việt Nam xưa nay quy định lãnh thổ Việt Nam là bất khả xâm phạm, do đó không chỉ có Thủ tướng, mà cả Quốc hội cũng không có quyền chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Do đó, bức thơ này không có ý nghĩa chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ VN.

Trong trường hợp này, giả sử nếu có, sự chuyển nhượng cũng không có giá trị, không có hiệu lực và không đúng với luật pháp quốc tế. Như trên đã nói, bà Monique Chemillier-Gendreau, nữ giáo sư thạc sĩ ngành công pháp và chính trị học của trường Đại học Paris VII - Denis Diderot của Pháp, đã ghi nhận: "Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không có quyền lực." Năm 1958, Việt Nam không kiểm soát, quản lý Hoàng Sa. Do đó, Việt Nam không thể chuyển nhượng hay bàn giao nơi này cho bất cứ ai.

Dù cho coi Hoàng Sa lúc đó là của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, của Mỹ, hay "của VNCH" đi nữa, thì sự thật thực tế là năm 1958 VNDCCH không kiểm soát Hoàng Sa, cho nên không thể chuyển nhượng cái mà mình không kiểm soát, quản lý thực tế.

Còn nếu muốn hứa hẹn chuyển nhượng trong tương lai sau khi đã giành lại địa điểm đó, thí dụ VNDCCH nếu muốn hứa sẽ chuyển giao Hoàng Sa cho Trung Quốc khi nào giành lại Hoàng Sa từ tay Mỹ, thì nội dung phải nói cụ thể rõ ràng điều đó. Nhưng nội dung công hàm Phạm Văn Đồng không có điều nào như vậy.

Như vậy, trong trường hợp này, giả sử nếu có, thì sự chuyển nhượng đó là không có giá trị pháp lý, vừa không có giá trị pháp lý Việt Nam, vừa không có giá trị pháp lý quốc tế.

Đó là các vấn đề chính, nội dung chính trong bản công hàm. Còn tất cả những cái khác đều là Trung Quốc suy diễn, xuyên tạc, tuyên truyền theo lợi ích và lòng tham của họ. Bọn tàn dư ngụy là bọn bán nước, nên không có gì lạ khi bọn họ hùa theo trò xuyên tạc của Trung Quốc, giúp chứng minh Hoàng Sa đã bị bán cho Trung Quốc, có nghĩa là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, giúp Trung Quốc củng cố chủ quyền trái phép. Ngoài Trung Quốc và bọn bán nước người Việt ra, không một ai trên thế giới này diễn giải ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng theo kiểu xuyên tạc trắng trợn và lố bịch đó.

12 hải lý theo quyền hạn quốc gia căn cứ trên luật biển quốc tế. Nguồn số liệu: United Nations Convention on the Law of the Sea - Luật biển Liên Hiệp Quốc

Vậy tại sao cần phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, tại sao cần phải vô hiệu hóa vấn đề Việt Nam tôn trọng 12 hải lý lãnh hải Trung Quốc, điều đó có gì sai?

Còn nếu ông cứ cố gắng tưởng tượng, tâm thần hoang tưởng kiểu Nguyễn Doãn Kiên, một tay cực đoan cuồng tín, thần kinh hoang tưởng trong Pháp Luân Công rằng công hàm đó có ý nghĩa là một hợp đồng chuyển nhượng chủ quyền, thì tại sao cần phải vô hiệu hóa cái vốn đã vô hiệu ngay từ ban đầu, như đã phân tích ở trên?

Con số chình ình 12 hải lý giấy trắng mực đen trong bản công hàm có chữ ký của cụ Đồng. "12 hải lý" là một nội dung cụ thể được định rõ (definite) và không thể suy diễn. Tất cả những nội dung khác không phải là nội dung cụ thể được định rõ, nên không có tác dụng, không có giá trị pháp lý, không có hiệu lực pháp lý khi tranh tụng tại tòa án quốc tế, dù.cho các nội dung đó bị Trung Quốc lợi dụng, suy diễn mơ hồ lệch lạc, uốn nắn bẻ cong ý nghĩa nội dung, vặn vẹo chữ nghĩa, vặn vẹo nội dung công hàm.

Trung Quốc lâu nay chỉ có các "bằng chứng" về sự thám hiểm và khám phá của họ, chứ không có những bằng chứng về sự xác lập chủ quyền của họ như các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn triều Minh Mạng của Việt Nam đã làm. Do đó họ bị yếu lý luận và đành phải bám vào bất cứ "chiếc phao" nào có thể.

Bọn chống cộng cực đoan ở Bolsa không biết gì nên phụ họa hùa theo Trung Quốc đã đành, đàng này Đỗ Hùng còn tệ hơn cả bọn họ, phụ họa theo cả Trung Quốc và bọn chống cộng cực đoan Bolsa.

oOo

Phải chăng vì những ngộ nhận, nhầm lẫn tai hại nghiêm trọng này mà Đỗ Hùng và báo Thanh Niên mấy năm nay luôn là một trong những anh chàng "hiệp sĩ" Kihôtê tiên phong đi đầu, phụ họa đi theo một nhóm phản động phá hoại đất nước tiếm danh "nhân sĩ, trí thức", đi đầu trong nỗ lực cào bằng "quân bình hóa" các giá trị lịch sử, "đốt đền thờ", đánh thức, vực dậy và phục dựng cái thây ma gọi là "VNCH"?

Họ làm vậy là do họ ngộ nhận, không hiểu biết, vô ý thức, vô trách nhiệm, hay họ là một nhóm lợi ích trong ngành báo, vì lợi ích nhóm nào đó nên muốn tìm kiếm "liên minh" với đám tàn dư ngụy đầu sỏ phản động lưu vong trên đất Mỹ?

Hay là họ bị hoang tưởng về khái niệm "thế giới phẳng", nghĩ rằng thế giới phẳng thì phải cào bằng lịch sử dân tộc, cào bằng cả thế giới, xem ai cũng như ai, phe nào cũng giống phe nào?

Quyền lực thứ 4 mà như thế này thì hại nước, hại dân.

Nguồn: Thiếu Long

CHẮC LÀ BÁC DUYỆT LỠ LỜI THÔI NHỈ?

Cuteo@


Nhiều bạn đọc đã tự hỏi: Chắc bác Duyệt chỉ lỡ lời thôi nhỉ?

Trong bài "Ông Phạm Thế Duyệt: “Trung Quốc đừng cậy mình là nước lớn” đăng trên Dân Trí ngày 15/05/2014 của phóng viên Châu Như Quỳnh có nội dung phỏng vấn ông Phạm Thế duyệt về vấn đề Trung Quốc những những hành động khiêu khích, hạ đặt trái phép giàn khoan 981 vào vùng biển nước ta. Bài viết có nội dung tốt, tuy nhiên không hiểu sao Ban biên tập hoặc phóng viên lại để xảy ra lỗi rất đáng trách, làm tổn hại đến uy tín, danh dự của ông Phạm Thế Duyệt, và là cái cớ cho những kẻ xấu lợi dụng xuyên tạc, nói xấu đảng và nhà nước.

Đoạn trả lời của ông Phạm Thế Duyệt như thế này:
Tôi mong rằng các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc ý thức được trách nhiệm với lịch sử 2 dân tộc, trách nhiệm trước nhân dân 2 nước và thành quả trước kia mà Bác Hồ, Bác Mao cùng 2 Đảng cộng sản đã xây dựng để giữ gìn mối quan hệ hữu hảo giữa 2 nước và xóa đi những gì không đúng với quan điểm đường lối của 2 Đảng và của quá trình đoàn kết thống nhất 2 nước.
Một số người có tâm địa đen tối lợi dụng câu trả lời của ông Duyệt để hỏi: Vậy xin hỏi ông Việt Nam và Trung Quốc đã và đang xây dựng một quá trình thống nhất “hai nước”, nghĩa là chỉ con lại “một nước”? Đó là nước nào? Tên nước này là gì? Ai xây dựng quá trình này? Sao không công bố rộng rãi cho toàn dân biết sẽ có sự thống nhất này? (Bài của Diên Vỹ đăng trên Hahien'blog)

Câu trả lời của ông Duyệt theo tôi nghĩ không phải là lỡ lời, mà là do lỗi diễn đạt của ông có vấn đề (Các bạn có thể kiểm chứng qua tất cả các bài báo mà ông duyệt trả lời báo chí đều có lỗi diễn đạt, cách diễn đạt ề à của ông làm người ta hiểu sai), và lẽ ra phóng viên, hay Ban biên tạp phải kiểm soát, hoặc hỏi lại trước khi cho đăng mới là đúng đắn.

Rất tiếc, công việc mang tính nghiệp vụ báo chí đơn thuần như vậy mà bản báo cũng không làm được. Vì thế mới có bài trên Hà Hiền Blog hoặc Dân News. Nếu như bản báo đã làm nghiêm túc, thì tôi nghĩ báo Dân Trí đang có vấn đề.

Đây là bài báo đó:


Thứ Năm, 15/05/2014 - 17:35

(Dân trí) - "Trung Quốc đừng nên cậy mình là nước lớn, nước mạnh, có sức mạnh về kinh tế và quân sự để cố tình không tôn trọng quyền bảo vệ và thống nhất của Việt Nam, bởi như vậy là trái với lòng dân, trái với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội".

Ông Phạm Thế Duyệt - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã trao đổi như vậy xung quanh vụ việc Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép trên vùng biển Việt Nam.

Thưa ông, việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương-981 trái phép tại vùng biển của Việt Nam là vi phạm Luật pháp quốc tế. Quan điểm của ông trong sự việc này như thế nào và hướng giải quyết ở đây là gì?

Việc Trung Quốc lại đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép và đưa tàu bè vào vùng biển chủ quyền của nước ta là đi ngược lại với những thương thảo đã thống nhất trong các văn bản trực tiếp, gián tiếp. Việt Nam - Trung Quốc 4 tốt, 2 đất nước xã hội chủ nghĩa với nhau mà lại diễn ra tình cảnh hiện nay thật đáng buồn!

Ảnh bên: Ông Phạm Thế Duyệt - nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Chúng ta cần phải làm hết trách nhiệm của mình, đồng thời làm cho nhân dân nhận thức rõ đạo lý việc tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước. Đảng và Chính phủ ta phải cố gắng làm rõ để cho Trung Quốc thấy được trách nhiệm cùng Việt Nam giải quyết những bức xúc, phức tạp không đáng có và giữ gìn chân lý.

Tôi mong rằng các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc ý thức được trách nhiệm với lịch sử 2 dân tộc, trách nhiệm trước nhân dân 2 nước và thành quả trước kia mà Bác Hồ, Bác Mao cùng 2 Đảng cộng sản đã xây dựng để giữ gìn mối quan hệ hữu hảo giữa 2 nước và xóa đi những gì không đúng với quan điểm đường lối của 2 Đảng và của quá trình đoàn kết thống nhất 2 nước.

Với quan điểm giải quyết sự việc bằng biện pháp hòa bình, những ngày qua Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã có những tuyên bố và hành động rất rõ ràng về hành vi xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, nhưng nước này vẫn cố tình phớt lờ, thậm chí gia tăng các hành động trái phép. Vậy theo ông chúng ta phải có hành động tiếp theo như thế nào?

Việt Nam là đất nước đã trải qua nhiều khó khăn, đau khổ của những cuộc chiến tranh do các thế lực xâm lược gây ra, vì thế không ai yêu hòa bình bằng người Việt Nam và không ai hiểu được sâu sắc những tổn hại và đau khổ của một đất nước bị xâm lược, bị chiến tranh như Việt Nam. Vì thế, chúng ta càng phải có ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước, ở đây không phải vì nước nhỏ-nước lớn mà ở đây là đạo lý hòa bình và mong rằng thế giới trân trọng.

Quan điểm của Đảng và Chính phủ Việt Nam là không để xảy ra chiến tranh, đụng độ không cần thiết, giành chủ quyền trên cơ sở tôn trọng đạo lý và pháp lý. Trung Quốc đừng nên cậy mình là nước lớn, nước mạnh, có sức mạnh về kinh tế và quân sự để cố tình không tôn trọng quyền bảo vệ và thống nhất của Việt Nam, như vậy là trái với lòng dân, trái với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hi vọng các nước trên thế giới sẽ cùng Việt Nam làm rõ đúng sai, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng lịch sử nhằm giữ gìn ổn định trên biển, ổn định khu vực.

Ông có đánh giá gì về các hoạt động của các tầng lớp nhân dân phản đối Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép trên vùng biển của Việt Nam trong những ngày qua?

Việc bày tỏ chính kiến và hành động đấu tranh của các tầng lớp nhân dân như vậy là tốt. Theo tôi, những việc đúng đắn chúng ta phải kiên quyết, phải lấy sức dân làm gốc. Bài học của tổ tiên chúng ta để lại là “Đem chính nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, sức mạnh của dân tộc là yếu tố quyết định. 

Các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo hãy tiếp tục cùng đồng tâm nhất trí ủng hộ cho các chủ trương của Đảng, Nhà nước để bảo vệ chủ quyền của đất nước; đồng thời thông qua chính kiến của mình làm cho các tầng lớp nhân dân, các dân tộc trên thế giới hiểu được đúng bản chất sự việc để ủng hộ cho công cuộc xây dựng đất nước của chúng ta.

Với sự việc ở Bình Dương vừa qua, ông nhìn nhận như thế nào?

Hành động biểu tình quá khích ở Bình Dương vừa qua là không được, đất nước ta không cho phép những hành động sai trái, những hành động trái đạo lý và hành động có hại cho tình hữu nghị, có hại cho nền kinh tế đất nước. Chúng ta đang kêu gọi đầu tư, vậy nhưng lại có những hành động phá hoại làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, điều đó là không thể chấp nhận và không thể dung thứ được.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Châu Như Quỳnh