Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

TRUNG QUỐC LẠI XUYÊN TẠC, BỊA ĐẶT CHỦ QUYỀN BIỂN ĐÔNG

TQ tiếp tục công bố tài liệu và phát ngôn bịa đặt chủ quyền Biển Đông

ĐÔNG BÌNH

(GDVN) - Trung Quốc đang tìm cách chế biến, xào xáo, tạo ra những "bằng chứng" giả để che mắt thiên hạ trước các cuộc tấn công dư luận và trên thực địa của Việt Nam.

Phát ngôn viên ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh

Các thông tin được Tân Hoa xã, TQ loan tải những ngày gần đây cho thấy, ngày 9 tháng 6, Trung Quốc cho phát ngôn viên ngoại giao Hoa Xuân Oánh tiếp tục bịa đặt, lừa đảo, nói xấu Việt Nam.

Về mớ tài liệu xuyên tạc, vu cáo được gọi là “Hoạt động của giàn khoan 981: Sự khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc” do Trung Quốc công bố ngày 8 tháng 6, bà Oánh tuyên truyền xuyên tạc với những luận điệu khó chấp nhận, khác xa thực tế cho rằng:

“Trung Quốc luôn tập trung cho thông qua trao đổi song phương để xử lý thỏa đáng vấn đề có liên quan”; rằng, ngày 2 tháng 5 năm 2014, Việt Nam bắt đầu “quấy rối mạnh mẽ” hoạt động của doanh nghiệp Trung Quốc, đến nay, “Trung Quốc luôn giữ kiềm chế, đồng thời đã tiến hành hơn 30 lần trao đổi với phía Việt Nam, đưa ra giao thiệp nghiêm túc với Việt Nam, yêu cầu Việt Nam chấm dứt tất cả quấy rối dưới mọi hình thức đối với hoạt động của phía Trung Quốc, rút tất cả tàu và nhân viên ở hiện trường”.

Bà Oánh tỏ ra trịch thượng và tiếp tục luận điệu lòe bịp thiên hạ cho rằng: “Nhưng, Việt Nam không hề bớt phóng túng, ngày càng táo tợn, một mặt gia tăng hoạt động quấy rối, phá hoại ở hiện trường, mặt khác trắng trợn bịa đặt nói xấu ở quốc tế, tiến hành bôi nhọ và công kích vô lý Trung Quốc. Trong tình hình đó, chúng tôi cần thiết nói rõ chân tướng sự thực cho cộng đồng quốc tế, để nghe cho đúng”.

Bà Oánh còn muốn tiếp tục bôi đen hình ảnh của Việt Nam khi nhắc lại sự kiện biểu tình phản đối Trung Quốc ở một số tỉnh của Việt Nam trong tháng 5, đồng thời lại đòi tiền “bồi thường”.

Phát ngôn viên ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh

Được biết, Trung Quốc đã xào xáo, chế biến ra cái mớ tài liệu gọi là “bằng chứng” mang tên “Hoạt động của giàn khoan 981: Sự khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc”, rồi cho công bố trên trang mạng Bộ Ngoại giao vào ngày 8 tháng 6.

Tài liệu này xuyên tạc cho rằng, Trung Quốc là nước “phát hiện sớm nhất, khai thác làm ăn sớm nhất, quản lý sớm nhất” quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc cho rằng, chính quyền Bắc Tống của họ (năm 960-1126 Công nguyên) đã đặt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trong “phạm vi quản lý” của họ, điều cả “thủy quân” đến tuần tra vùng biển này. Cho rằng, năm 1909 đề đố “thủy quân” nhà Thanh Trung Quốc là Lý Chuẩn cũng dẫn quân thị sát quần đảo Hoàng Sa và “cắm cờ bắn pháo” trên đảo Phú Lâm, “tuyên bố chủ quyền”….

Cứ bịa như vậy, nên Trung Quốc cho rằng, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã xâm chiếm “quần đảo Tây Sa” của Trung Quốc. Do đó theo các “văn kiện quốc tế” sau khi Nhật Bản đầu hàng thì Trung Quốc phải “thu hồi” chúng…

Tài liệu này còn xuyên tạc cho rằng, trước năm 1974, Việt Nam không hề “dị nghị” về “chủ quyền quần đảo Tây Sa” của Trung Quốc (đây là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam).

Ngoài ra, Trung Quốc bịa đặt cho rằng, "ngày 15 tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Ung Văn Khiêm khi đó còn thừa nhận “quần đảo Tây Sa”, “quần đảo Nam Sa” của Trung Quốc (thực ra là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Vụ trưởng Vụ châu Á Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Lộc cũng nói với phía Trung Quốc như vậy".

Đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam - quần đảo này bị Trung Quốc dùng vũ lực xâm lược năm 1974 khi Việt Nam đang tập trung cho chống Mỹ cứu nước.

Tài liệu Trung Quốc còn bịa đặt cho rằng, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chính phủ Trung Quốc ra tuyên bố về độ rộng của lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý và nó có nhắc đến “quần đảo Tây Sa” (quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam).

Ngoài ra, tài liệu này còn cho rằng, ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng khi đó đã gửi “thông điệp” cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai cho rằng, Chính phủ Việt Nam thừa nhận tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc.

Về việc Việt Nam và Philippines tổ chức giao lưu thi đấu thể thao ở quần đảo Trường Sa, bà Oánh cho rằng, hoạt động này là một động thái nhỏ, là một “trò hề vụng về”.

Đồng thời bà Oánh lại rao rảng như đang ở trên mây rằng: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Trường Sa và vùng biển xung quanh”. Bà ta lớn tiếng yêu cầu Philippines và Việt Nam “chấm dứt bất cứ hành vi khiêu khích, gây sự nào”, “tuân thủ nghiêm túc DOC, không tiến hành bất cứ hành vi làm cho tranh chấp thêm phức tạp và mở rộng nào”.

Tuy nhiên, điều đáng xấu hổ cho TQ là những gì Trung Quốc nói không giống những gì Trung Quốc làm, đều là giọng lưỡi của những kẻ bịp bợm, bày đặt muốn nước khác phải tuân thủ COC nhưng bản thân mình tay còn đang "vấy bẩn" cực độ.

Về việc có tin cho là Trung Quốc muốn đầu tư lớn xây dựng sân bay ở Đá Chữ Thập, bà Oánh ráo hoảnh cho là chưa thấy có thông tin gì, không thể chứng thực tính chân thực của thông tin này, nhưng bà lại đi lừa đảo rằng: “Nếu Trung Quốc muốn tiến hành hoạt động gì ở đảo, đá ngầm có liên quan thì cũng hoàn toàn là việc trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc”.

Trung Quốc cho tàu chiến, máy bay quân sự, tàu hải cảnh... xâm lược vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, bất chấp luật pháp quốc tế. Trong hình là tàu hộ vệ tên lửa Vận Thành số hiệu 571 Type 054A cùng với máy bay trực thăng của Hạm đội Nam Hải hộ tống cho giàn khoan 981 xâm lược vùng biển chủ quyền của Việt Nam

TRUNG QUỐC ĐANG TỰ CÔ LẬP CHÍNH MÌNH

Ong Bắp Cày


Bất chấp luật pháp và đạo lý, bằng hành độc xâm lược Việt Nam, gây rối an ninh khu vực, cản trở giao thông hàng hải quốc tế, Trung Quốc tự bôi bẩn thêm hình ảnh của chính mình và đang tự cô lập mình trên trường quốc tế. Cái lợi chưa thấy đâu, nhưng cái hại là nhãn tiền. 

Vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ theo lối "hoà bình" kiểu Việt Nam, giờ đây Trung Quốc khó có thể đạt được sở nguyện theo lòng tham vô đáy của mình, đồng thời chịu búa rìu dư luận. Sự kiện xâm lược Việt Nam bằng giàn khoan khổng lồ đã đẩy Trung Quốc đi quá đà và rơi vào tình cảnh "đi thì mắc núi, trở lại thì mắc sông", "tiến thóai lưỡng nan" trong bối cảnh nội tình đất nước còn quá nhiều vấn đề chỉ chờ cơn bùng nổ.

Đã có những ý kiến về sự liều lĩnh cho cuồng vọng của Trung Quốc trên biển đông, đã và đang hoang phí tiền của của nhân dân Trung Quốc. Nhưng đổi lại hình ảnh của Trung Quốc vốn đã không đẹp, nay trở lên vô cùng xấu xí bởi người ta nhận ra sự xảo trá lưu manh trong hàng ngũ lãnh đạo của nước này.

Có lẽ cũng cần nói thêm, trước khi hùng hổ kéo giàn khoan được coi là “quốc thổ di động” vào vùng biển Việt Nam, Trung Quốc chắc chắn đã lường tính đến các tình huống và phản ứng có thể xảy đến từ Việt Nam, ASEAN, Mỹ cũng như thế giới. Và đến giờ này, chính Trung Quốc cũng không ngờ bị mắc nghẹn và dính đòn “gậy ông đập lưng ông” bởi cuồng vọng bị đẩy quá đà, lộ rõ sự ảo tưởng về sức mạnh của mình, đồng thời thể hiện “chưa biết người”. Chưa rõ liệu Trung Quốc thu được gì từ hành vi gây hấn ngang ngược, song thực tế chỉ ra Trung Quốc đang rơi vào cảnh “ghét của nào trời trao của nấy”.

Trước đó Trung Quốc ra sức rao giảng chủ thuyết “trỗi dậy hòa bình" với những cuộc “tấn công quyến rũ” bằng kinh tế, thương mại, đầu tư, sức mạnh mềm văn hóa và hàng hóa giá rẻ tràn ngập toàn cầu. Tuy nhiên, với những hành động hung hăng, rõ ràng Trung Quốc đang tự phá hỏng uy tín và hình ảnh nước này dày công xây dựng bấy lâu.

Tờ Les Echos của Pháp mới đây đăng bài “Trung Quốc - cường quốc ngày càng hiếu chiến” của tác giả Gabriel Grésillon đánh giá, nếu như cách đây 5 năm, Trung Quốc còn được xem như một quốc gia hòa bình, thì giờ đây đã trở thành một kẻ gây hấn tiềm tàng trong khu vực. Hành động này ẩn chứa một rủi ro nghiêm trọng là làm sụp đổ uy tín của quốc gia. Đáng chú ý, đây không còn là ý kiến mang tính đơn lẻ mà đã trở thành nhận định phổ quát trên toàn cầu. 

Bài viết "Khuấy động biển Đông, Trung Quốc "gậy ông đập lưng ông" trên tờ Tiền Phong, của tác giả Đặng Vương Hạnh cũng có chung nhận xét về một Trung Quốc hung hãn nhưng không che dấu nổi nỗi sợ khi thế giới đoàn kết vì công bằng và lẽ phải. Tác giả viết: "Một thất bại khác, Trung Quốc rất sợ quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông và trước nay chỉ một mực khăng khăng dùng chiêu “đàm phán song phương” để bẻ từng chiếc đũa yếu ớt. Nhưng nay không phải Việt Nam mà chính tham vọng siêu cường của Trung Quốc đã tự quốc tế hóa vấn đề biển Đông. Đơn giản biển Đông không thể là ao nhà của riêng nước nào và thái độ hung hãn của Trung Quốc đã đe dọa sự ổn định của khu vực, tự do hàng hải và lợi ích thương mại của hàng loạt cường quốc". Vậy là với hành động bá quyền của mình, Trung Quốc đang tự làm hại mình. Tiền nhân quả đã đúng khi "ghét của nào thì trời trao của đó".

Không chỉ vấp phải sự phản đối của Việt Nam, Philippines mà Trung Quốc còn hứng chịu sự chỉ trích gay gắt của Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Úc, Ấn Độ…Không lạ nếu khu vực châu Á-Thái Bình Dương xuất hiện những cơ chế an ninh mới hoặc liên minh nào đó nhằm đối phó với các nguy cơ nổi lên.Hệ quả  của việc Trung Quốc cố thay đổi hiện trạng, thách thức Mỹ đã khiến Washington khuyến khích Nhật Bản gánh vác một vai trò lớn hơn trên vũ đài khu vực. Tất nhiên, Nhật Bản không phải là Trung Quốc, họ đã ngay lập tức chớp lấy cơ hội này, tháo bỏ những cấm điều để trở thành một quốc gia bình thường được phép xuất khẩu vũ khí, có quyền phòng vệ tập thể, thực hiện chủ nghĩa “hòa bình chủ động” trên trận tuyến chung. Nhật Bản không nghi ngờ là một đối trọng kỵ giơ với Trung Quốc, hiển nhiên cũng rất khao khát tư cách “anh cả” khu vực. Chắc chắn sự chia sẻ quyền lực (sẽ đi kèm lợi ích) tại khu vực này sẽ làm cho Trung Quốc khó chịu.

Tác giả Đặng Vương Hạnh, trong bài báo của mình cũng nhắc đến việc các quốc gia đang khao khát hòa bình thực sự, độc lập thực sự đang tìm cách thoát ly khỏi sự ảnh hưởng của Trung Quốc để trở thành quốc gia phát triển. Đã có những cuộc thảo luận, có những ý kiến cho việc nghiền ngẫm thuyết "Thoát Á Luận" của nhà tư tưởng Nhật Bản Fukuzawa Yukichi, từng mở lối khai phóng một nước Nhật phát triển huy hoàng thời Minh Trị.

Cuối cùng, chúng ta có thể thấy rõ, Trung quốc đang ngày bị cộng đồng quốc tế nhận diện rõ nét và ngày càng trở nên cô độc bởi cách hành xử vô luân, bạo ngược của mình.

"Tôi không bao giờ tin điều Trung Quốc nói"! - Đó là khẳng định của James Borton, phóng viên kỳ cựu của Washington Times và là giảng viên Đại học Nam Carolina (Mỹ) với PV Infonet trong cuộc gặp hôm 8/6 với chủ tàu cá ĐNa 90152 (Đà Nẵng) bị tàu Trung Quốc đâm chìm. Và đó chính là điều mà Trung Quốc gặt hái được qua sự kiện dùng giàn khoan 981 xâm lược Việt Nam.

TÍNH CÁCH NGƯỜI CÁC TỈNH TẠI TRUNG QUỐC

Khoai@ 


Nhặt bài "Tính cách người các tỉnh tại Trung Quốc" từ nhà Phẹt. Tất nhiên là chỉ để tham khảo thôi.

Bài hơi dài, anh em cố gắng cày cuốc, rồi sẽ có ngày nên cơm nên cháo.

Chúc vui vẻ.

1. Người Hà Nam

Tỉnh Hà Nam là cái nôi của dân tộc Trung Hoa, trong sáu cố đô của Trung Quốc có ba cái ở Hà Nam. Thế nhưng thanh danh hiện nay rất xấu, các công ty lớn tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến đều không muốn thuê dùng người Hà Nam. Đã có câu nói: “phòng lửa, phòng trộm,(đề) phòng người Hà Nam”, thậm chí tại Thâm Quyến đã từng có biểu ngữ “nghiêm khắc đả kích bọn tội phạm Hà Nam”

Có thể là do đất hẹp ngưòi đông (sắp đạt 100 triệu dân), nên cạnh tranh dữ dội, rất nhiều ngưòi dường như xảo quyệt là thiên tính. Độ tín nhiệm của các công ty Hà Nam rất xấu, hễ lừa được là lừa, hễ hãm hại được là hãm hại, buôn bán làm ăn với họ là rất mạo hiểm. Trịnh Châu, Tân Hưong, An Dương tập trung rất nhiều công ty lừa gạt, dùng các phương thức như uỷ thác gia công, liên minh, để lừa gạt, chính quyền địa phưong về căn bản không quản lý. Người Hà Nam phổ biến có địa vị không cao tại các thành phố lớn nhưng tiếng tăm lại rất nổi; “ thu nhặt đồ phế phẩm rất nhiều ”(và thường thuận tay giắt bò). Số gái điếm cũng không ít, thưòng lang thang tại thành phố. Tỷ lệ người Hà Nam phạm tội ở Bắc Kinh chỉ dưói ngưòi Đông Bắc, nên ở đâu cũng bị chèn ép, thậm chí nhiều người Hà Nam phải nói dối là người Hà Bắc, người Sơn Đông.

Thực ra ngưòi Hà Nam rất chăm chỉ, chịu khổ được, tập quán sinh họat vốn thật thà chất phác, nhất là ngưòi nông thôn. Tuy vậy có nhược điểm là bảo thủ, thành kiến, không nghĩ đến tiến thủ. Là tỉnh có sức lao động lớn nhất Trung Quốc.

Người Hà Nam ở nhà rất coi trọng lễ nghĩa, các chuyện ma chay cưới xin, sinh đẻ, lễ tết …đều rất coi trọng lễ nghĩa. Tuy nhiên ngưòi Hà Nam nổi tiếng vì không thích tắm rửa.


Nói chung tiếng xấu với ngưòi Hà Nam đã thâm căn cố đế. Nhiều người thường trách mắng người Hà Nam, nhưng lại quên mất rằng tổ tiên ngưòi Khách Gia thậm chí người Thượng Hải đều là ngưòi Hà Nam.

2. Ngưòi Hồ Bắc.

Là láng giềng của tỉnh Hà Nam, trình độ xảo quyệt không thua ngưòi Hà Nam, hàng giả tại một đưòng phố tại Hồ Bắc đã từng nổi tiếng tại Trung Quốc. Tuy vậy thanh danh ngưòi Hồ Bắc không xấu như vậy, đây được coi là tỉnh có nhiều hồ nước, nước nhiều tự nhiên tính tình linh hoạt, và có nhiều mỹ nữ. Ngưòi Hồ Bắc rất thông minh, số ngưòi đạt kết quả cao trong các kỳ thi vào đại học rất cao. Ngưòi Hồ Bắc học giỏi, trường trung học phổ thông Hoàng Cưong nổi tiếng cả nước, thậm chí nhiều trường học trọng điểm của Bắc Kinh, Thưọng Hải cũng không bằng Thiên Môn nổi tiếng là quê hương của Hoa Kiều trong nội địa. Hồ Bắc có những nơi rất giàu, có thể so sánh với vùng ven biển. Tuy vậy ở mấy nơi tiếp giáp với Đại Biệt Sơn tỉnh An Huy, Hà Nam lại là vùng nghèo nhất nước.

Huyện Hồng An của Hồ Bắc đựoc gọi là “huyện của các vị tướng”(có tới 223 vị tướng) đó là vì thời thế tạo anh hùng, những năm tháng đó nơi nào càng nghèo, tinh thần tham gia cách mạng càng cao.

Người Hồ Bắc hướng nội, biết giấu mình chờ thời, nhưng dũng khí (trong khi tìm hiểu đối tưọng) không bằng ngưòi Hồ Nam.

Hồ Bắc cũng là tỉnh có nhiều nông dân vào thành phố làm thuê.

3. Người Hồ Nam

Ngưòi Hồ Nam được gọi là “ngưòi phương bắc của phưong nam” tính cách bộc trực, khí khái dữ dội như ớt cay, cổ họng cũng tưong đối lớn. Sử sách cố có nhiều từ ca ngợi ngưòi Hồ Nam nhất( ví dụ: “Sở chỉ còn 3 hộ vẫn có thể diệt Tần”, “không có Hồ Nam không thành quân đội”, “người Hồ Nam chưa đổ, Hoa Hạ chưa đổ”. Quân Hồ Nam của Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Đưòng đã kéo dài thêm hương hoả nhà Thanh gần nửa thế kỷ, nhiều nguyên lão khai quốc của đảng cộng sản là ngưòi Hồ Nam. Có thể nói bộ cận đại sử Trung Quốc và nửa bộ hiện đại sử Trung Quốc là do ngưòi Hồ Nam dùng máu tươi và sinh mệnh của mình viết nên.

Người Hồ Nam thông minh, dũng cảm, mạnh mẽ quả quyết, dám đảm nhiệm việc lớn coi thiên hạ hưng vong là trách nhiệm của mình, “nước Trung Hoa chỉ diệt vong khi ngưòi Hồ Nam chết hết” ngưòi Hồ Nam tập trung đựoc mỹ đức ưu tú của dân tộc Trung Hoa. Học tập, đi lính đánh nhau, lao động đều tốt. Thế nhưng gần đây phong khí xã hội đã có xu thế giảm sút. Trường Sa là thành phố tiêu dùng điển hình, các nhà tắm đầy thành phố (đều kèm theo gái) nhung giá rất đắt, dân địa phưong không có tiền vào tắm và thưòng do ngưòi Quảng Đông tới làm mưa làm gió.

Song Phong là”quê hưong làm các loại giấy chứng nhận giả” của Trung Quốc. Huyện Sâm Châu toàn là tham quan. Ngưòi Hồ Nam có 3 loại khí: linh khí, phỉ khí và bá khí, một khi trở thành nhóm bạo lực thì nguy hại cực lớn. “Đảng ô tô” mà Quảng Đông đang đả kích mạnh chủ yếu là ngưòi Hồ Nam, “Nhóm Hồ Nam” vượt trội hơn “Nhóm Đông Bắc” và “Nhóm Quảng Tây”

Hồ Nam có nhiều gái đẹp, đảm đang thông tuệ, làm việc tháo vát, nhưng làm vợ thì không đáng tin lắm, đã có câu nói”Tương nữ đa tình”( gái Hồ Nam đa tình) số ngưòi làm việc trong ngành dịch vụ bằng vai phải lứa với các chị em Tứ Xuyên, Đông Bắc. Ở đây có câu “chỉ cưòi nghèo chứ không cưòi xướng ca”. Là tỉnh lớn xuất khẩu “ các vợ hai”.

4. Người Quảng Đông

Ngưòi Quảng Đông là nhóm ngưòi phức tạp nhất Trung Quốc, thân thể nói chung nhỏ, lùn, trán rô, mắt nhỏ mà sâu, mũi hơi rộng, môi dày. Có 3 ngôn ngữ chính: tiếng phổ thông, tiếng Triều Châu, tiếng Khách Gia. Trong lịch sử Quảng Đông là một vùng pha tạp của Bách Việt, vùng ven biển còn có ngưòi Đông Nam Á đến ở, gọi là ngưòi Quảng Phủ, gồn cả ngưòi Hồng Công, Ma Cao; ngưòi vùng Triều, Sán cũng có ngôn ngữ và phong tục độc đáo. Hai loại ngưòi này thuộc ngưòi ở đất Quảng Đông. Xem xét từ mặt sinh vật thấy nguồn gốc dân tộc không giống ngưòi phưong bắc.

Sau “ngũ Hồ loạn Hoa” ngưòi Hán vùng trung nguyên(chủ yếu là ở Hà Nam) di cư một lưọng lớn về phía nam, tập trung sinh sống tại vùng Mai Châu, Hà Nguyên, và một phần vùng Kiết Dưong, Sán Vỹ, nói tiếng Khách Gia. Bộ phận ngưòi Hán này phải được coi là ngưòi Hán “thuần chủng” về huyết thống nhất(ngưòi phưong bắc luôn luôn ở vào vị thế dân tộc hoà nhập). có khoảng hơn 10 triệu nguời. Tôn Trung Sơn, Lý Gia Thành cũng đều là ngưòi Khách Gia. Quảng Đông là tỉnh có ngưòi Hoa ra nuớc ngoài sớm nhất để kiếm sống, có hơn 20 triệu Hoa Kiều, ngưòi Triều Sán và Ôn Châu nổi tiếng ở nuớc ngoài vì kinh doanh, buôn bán.

Do ngưòi Qưuảng Đông bị ma quỉ hoá tuyên truyền nên tại Mỹ và Canada có có phong trào “bài Hoa” kéo dài nửa thế kỷ. Quảng Đông là nơi bắt nguồn cách mạng dân chủ cận đại, là giao điểm của văn minh đông, tây là lô cốt đầu cầu và ngưòi lính đứng đầu của cải cách mở cửa. Ngưòi Quảng Đông là nhóm người hải dương, tràn đấy khí huyết và sức sống, đầu óc linh hoạt, giầu tính mạo hiểm, tính sáng tạo, dám đi trước thiên hạ. Ngưòi Quảng Đông không thích thú lý luận rỗng tuếch, và cũng chẳng để ý bàn bạc triết lý, con ngưòi, và cũng không hứng thú với chính trị.. Người người đều vào ra bận rộn vì tiền, suốt ngày hết đông lại tây. Ngưòi phương bắc suy nghĩ trước, hành động sau, còn người Quảng Đông lại hành động truớc rồi mới suy nghĩ sau, coi trọng hiệu quả và giá trị, không coi trọng hình thức và thể hiện bề ngoài. Hiện nay Quảng Đông đã trở thành vùng kinh tế phát triển nhất Trung Quốc,. Phụ nữ Quảng Đông rất hiền hậu, giỏi việc bếp núc. Thế nhưng hình tưọng nhân văn của Quảng Đông lại là hộ phất điển hình. Mấy đánh giá thưòng thấy là:

-Lạnh nhạt, bài ngoại, tự đại. Quảng Châu là thế giói phồn hoa, là thành phố lãnh đạm nhất thế giới, nếu như chỉ hỏi đường với một ngưòi Quảng Đông mà lại nói tiếng tỉnh ngoài thì rất ít khi được trả lời. Láng giềng với nhau mà cũng cửa đóng then cài, chẳng ai để ý tới ai, thêm một việc chẳng bằng bớt đi một việc. Ở Quảng Châu muốn tìm một ngưòi sẵn sàng làm việc nghĩa còn khó hơn lên trời. Ngưòi Quảng Đông bài ngoại từ lâu, đã từng gọi những ngưòi ngoài Quảng Đông là “thằng vơ vét” gọi phụ nữ là “em gái xứ bắc”, gọi ngưòi phưong tây là “quỉ”.. thậm chí ngay ngưòi Triều Sán ngay trong tỉnh cũng bị gọi là “thằng lạnh nhạt”. Nhiều ngưòi Quảng đông tri thức địa lý nghèo nàn, thưòng tự cho mình là trung tâm, ngoài Quảng Đông ra đều là phưong bắc cả.

-Ngưòi Quảng Đông không có văn hoá. Có văn hoá trà, văn hoá rượu, văn hoá ăn thịt rắn, văn hoá uống canh, nhưng không tiếp nhận quốc tuý, chỉ sung bái văn hoá Hồng Công, Đài Loan. Ngưòi Quảng Đông về cơ bản không xem TV trung ương, giữa kinh tế và văn hoá không bao giờ có sự cùng tiến, hầu như là sa mạc văn hoá. 500 doanh nghiệp lớn nhất nước, 500 doanh nghiệp lớn nhất thế giới chẳng có mấy đơn vị chịu đặt tổng bộ tại Quảng Đông

-Người Quảng Đông không có tố chất. Mặc dù chưa ăn xong là họ đã sách túi chạy đi, rất vụ thực. Chẳng mềm tay trước mọi thứ của ngưòi khác. Tiêu thụ đũa ăn, hộp cơm dùng một lần nhất toàn quốc. Bất kể là nam hay nữ, ban ngày đều mặc quần áo ngủ đi dạo phố, vào siêu thị như chỗ không ngưòi.

-Ngưòi Quảng Đông không quan tâm việc lớn quốc gia, không quan tâm tới sự phát triển của thế giới. Vinh nhục của đất nước chẳng hề bận lòng chỉ theo lối sống nhỏ bé của mình, chỉ quan tâm tới giá nhà ở và cổ phiếu của mình.

-Nghiện đánh bạc thành tính, nổi tiếng thế giới.Loại sổ xố nào cũng chơi, hễ phát hành là bán hết.

-Ngưòi Quảng Đông rát mê tín, thích đi lễ tại đền chùa, mỗi năm mấy lần. Bàn thớ trong nhà ngày lễ ngày tết không bao giờ để tắt khói hưong. Bản số ô tô, số nhà, số điện thoại, ngày kết hôn, ngày mở cửa hàng đều chọn số 6 và số 8. Còn đến mức mổ bụng mẹ để sinh con đứng ngày đã chọn. Ngày quốc sỉ 19/8 hàng năm(ngày Nhật xâm lược 3 tỉnh đông bắc) lại là ngày lành tháng tốt của ngườì Quảng Đông.( vì đối với họ số 9 và số 8 đều là số đẹp) Có ngưòi xây mộ cha ông còn hào hoa hơn nhà ở của mình( không hoàn toàn là vì hiếu kính)

-Đàn ông Quảng Đông rất vô sỉ, đàn bà thì chẳng ra làm sao. Đi trên phố thi thoảng gặp mỹ nữ thì đều là ngưòi Tứ Xuyên, Hồ Nam. Học sinh yêu sớm nổi tiếng cả nước, tiểu học đã bắt đầu biết tay nắm tay nhau, lên trung học là dám mạnh dạn hôn nhau. Liệu có ngưòi đàn ông Quảng Đông nào không chơi gái không? Liệu có anh Quảng Đông sẵn tiền nào không bao “vợ hai” không? Phụ nữ Quảng Đông nếu không có đàn ông là không tự tin vào cuộc sống, không biết dựa vào luật pháp để bảo vệ mình
.
-Ngườì Quảng Đông cái gì cũng dám ăn. Rắn, chuột, chó, mèo, ấu trùng, xuyên sơn giáp… cho đến cả thai nhi cũng như tất cả các loại động vật dã sinh được bảo hộ đều ăn tuốt. Năm 1949 giải phóng quân Trung Quốc đánh xuống miền nam, tham dự chiến dịch Lưỡng Quảng đều là ngưòi Đông Bắc khi nghe kể về những thói ăn kỳ lại ở đây, có nhiều binh lính đã không muốn ra trận nữa.

-Ngưòi Quảng Đông rất kiêu ngạo trong buôn bán. Làm ăn, qua lại với ngưòi Quảng Đông sẽ thấy họ, một là tinh nhưng không tín, hai là ngạo mạn.Thưòng nhìn ngưòi khác bằng con mắt: ngưòi có ta cũng có, ngưòi không có ta có, muốn là làm không muốn là bỏ đi. Nhưng khi cần anh thì lại giả tạo đến mức chịu không nổi.

-Sách giả, thuốc lá giả, đĩa giả, tiền giả.. .do ngưòi Quảng Đông chế tạo lan tràn khắp nước. Cho thêm nước vào bình gaz, cho thêm thuốc nhuộm mầu độc hại vào thực phẩm, biến cồn công nghiệp thành rượu nổi tiếng, lại còn thuốc giả, máy móc nhái thương hiệu nuớc ngoài. Quảng Châu, Đông Quán, Thâm Quyến là những thành phố không có cảm giác an toàn nhất, Thành phố Đông Quán vừa bẩn vừa loạn, cũng có sông đào nhưng mùi thối thấu trời. Đáng sợ nhất là ban ngày mà trộm cướp vần hoành hành. Quảng Đông là tỉnh lớn nhát về “vợ hai”, tại Thâm Quyến, Đông Quán có rất nhiều “thôn vợ hai” rất tráng lệ

5. Người Quảng Tây

Ở Quảng Tây chủ yếu có hai loại tiếng địa phưong là tiếng Quế, Liễu(tiếng Quế Lâm và Liễu Châu rất gần tiếng Hồ Nam) và tiếng Nam Ninh(loại biến chủng của tiếng phổ thông Quảng Đông, rất khó nghe). Khí hậu Quảng Tây viêm nhiệt. Ngưòi Quảng Tây bị coi là có tính cách nhu nhược nhấtửTung Quốc, thưòng đựoc coi là đại biểu cho sự mềm yếu có thể coi thưòng, từ thời xưa đã thiếu vắng dũng sĩ cũng như những bậc kiêu hùng, nếu tính cách người Trung Quốc đều như ngưòi Quảng Tây, thì đất lớn Trung Hoa đã bị các cưòng quốc chia cắt hết từ chiến trnh thuốc phiện. Người Quảng Tây phổ biến gầy ốm, nước da xấu , tỷ lệ nam thanh nữ tú thấp nhất trong cả nước.

Ô tô công cộng, thậm chí cả xe ngựa ở Nam Ninh cũng rất lùn nhỏ. Đường phố Nam Ninh nhỏ hẹp, siêu thị thô sơ(siêu thị lớn là từ ngoại tỉnh đến), xe máy đứng đầu cả nuớc, chôc này cũng thấy cửa hàng bán cây thuốc. Ngưòi Nam Ninh ăn không khỏe và rát tiết kiệm

Quan chức hủ bại, bất học vô thuật(bỏ tiền mua quan). Kinh tế tuy lạc hậu, nhưng quan niệm về tính dục rất cởi mở, đã có câu “đại học Quảng Tây không còn gái trinh”. Có 1000 NDT(khoảng 3 triệu VNĐ) là có thể bao được nữ sinh viên Học viện Nghệ thuật Quảng Tây . Quảng Tây có rất nhiều nơi du ngoạn đẹp, nhưng không biết kinh doanh. Ngành nhà đất, may mặc bị ngưòi Ôn Châu(tỉnh Phúc Kiến) nắm hết. Lưỡng 
Quảng(Quảng Đông, Quảng Tây) mặc dù cùng nguồn cội, nhưng lại “tính tương cận, tập tương viễn”. Tính cách chung của cả hai tỉnh này là cái gì cũng dám ăn.

Đàn ông Quảng Tây tiểu khí, tự tư, nhát gan, nhưng một khi đến Quảng Đông thì đã có biến đổi lớn về tính cách. “Đảng ô tô” chủ yếu là ngưòi Quảng Tây. Người nông thôn Quảng Tây tương đối thiện lưong(kể cả ngưòi Choang ở vùng xa xôi hẻo lánh mà về cơ bản đã bị tộc Hán đồng hoá) thành thực, trung hậu, không có tính công kích, chỉ cần ngưòi ta thương hại là được. Nghiện đánh bạc, chơi các loại sổ xố khiến nhiều ngưòi tan cửa nát nhà, rất nhiều ngưòi chưa từng ngồi xe lửa.

6. Người Hải Nam

Là nơi tổ tiên ngưòi Lê dời đến sớm nhất, là một quận thời Tây Hán, đến Ngũ đại là nơi di dân trung nguyên đến nhiều nhất, trong đó thời Tống,Minh Thanh qui mô di dân lớn nhất mà chủ yếu là từ Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây. Tỉnh Hải Nam là tỉnh thành lập sau cùng của Trung Quốc, trứoc đó là vùng xa và lạc hậu của tỉnh Quảng Đông, tiéng nói chủ yếu là tiếng phỏ thông Quảng Đông mang đặc sắc Hải Nam.

Dân Hải Nam gốc rất bảo thủ, tầm nhìn hẹp, tự cho mình là giỏi, nhưng ngay khi nói cũng để lộ sự yếu đuối. Nước da đen là một đặc trưng điển hình, thân ngưòi lùn nhỏ, rất ít trai tài gái sắc.
Ngưòi Hải Nam chịu được nghèo nhưng không chịu được khổ. Do có nhiều di dân, thưong nhân Hả Nam đã lộ rõ đặc sắc ưa thích đầu cơ, nhưng tư duy với tầm nhìn ngắn hẹp.

Hải Nam cũng là quê hưong Hoa Kiều, nhưng nhiều ngưòi trongbọn họ vẫn thuộc loại nghèo không thành đạt như ngưòi Triều Sán và ngưòi Khách Gia ở nước ngoài. Đây là nơi buôn lậu khá phổ biến. Kinh tế Hải Nam còn rất yếu. Có câu: đến Bắc kinh mới thấy quan mình nhỏ, đến Đông bắc mới thấy gan mình bé, đến Quảng Đông mới thấy tiền mình ít, đến Hải Nam mới thấy sức khoẻ mình rất không tốt!

7. Ngưòi Hồng Công

Ngưòi Hồng Công sớm nhất là di dân Quảng Đông, bị nuớc Anh thống trị lâu dải.Trên ngưòi Hồng Công có cả đặc trưng tính cách phưong đông và phương tây, hàm súc của phương đông, thẳng thắn của phương tây, nhiệt tình của phương đông, lãnh đạm của phưong tây, tình cảm của phương đông, khách quan của phương tây. Trừ một số cá biệt ra đa số người Hồng Công không tự đánh giá thấp nguồn gốc, dòng máu của mình và không tự phủ định. Cái phủ định là đại lục “không dân chủ”, “hủ bại” tâm trạng phổ biến là “yêu nước, yêu Hồng Công, nhưng chưa chắc đã yêu đảng”

Từ năm 1997 đến nay, tính đồng thuận của ngườì Hồng Công với tổ quốc đã không còn vấn đề gì, thậm chí những phần tử yêu nước ở đây, còn kích tiến hơn cả đại lục( việc bảo vệ đảo Điếu Ngư-Senkaku là một ví dụ, phi công vũ trụ Dưong Lợi Vỹ được hoan nghênh nhiệt liệt ở Hồng Công) khiến đại lục toát mồ hôi. Hồng Công đất hẹp ngưòi đông do đó cạnh tranh rất ác liệt, tạo nên tính cách sáng suốt, dám làm, kiên nhẫn, thực tế, khẩn trương, tất bật. Ngưòi Hồng Công mặc dù đã gần bị tây hoá nhưng bất kể là trong việc cầu mong bình an, sự nghiệp thành đạt, chuyện hôn nhân, bệnh tật… đều đến chùa đền khấn vái cầu xin, có phần thành kính hơn ngưòi nội địa. Ngưòi Hồng Công cũng như ngưòi Đài Loan phần lớn bao “vợ hai” tại đại lục, ngay phu vận tải cũng bao “em gái Tứ Xuyên” tại Thâm Quyến

8. Ngưòi Macao

Bị Bồ Đào Nha thống trị hơn 400 năm nhưng quan niệm văn hoá truyền thống vẫn không thay đổi, Ma Cao và HồngCông chỉ cách nhau một cửa sông Châu Giang, nhưng Hồng Công thì chen chúc náo nhiệt khiến lòng ngưòi chẳng mấy khi yên,còn Ma Cao tuy chen chúc mà không náo nhiệt, căng thẳng mà vẫn yên tĩnh khiến người ta thoải mái thư nhàn, chỗ nào cũng thấy tình ngưòi ấm áp rất ít khi nghe thấy tiếng tranh cãi, càng chẳng thấy những hành động thô bạo. Có thể là nơi này đất hẹp ngưòi ít, ngưòi đi đưòng gặp nhau đều có cảm giác như là đã biết nhau rồi. Đàn ông Ma Cao “nhỏ ngưòi nhưng bụng dạ rộng lớn” ngụ ý tuy không cao lớn như đàn ông Đông Bắc nhưng rất độ lượng, không tính việc nhỏ, tinh thẩn trách nhiệm cao; phụ nữ Ma Cao hết lòng với việc nhà, hiến dâng vô tư cuộc sống của mình cho cha mẹ, chồng, con. Kinh tế Ma Cao đơn nhất, ngoài đánh bạc và du lịch ra chẳng có vị trí gì trên quốc tế. Việc Ma Cao về với tổ quốc có ý nghĩa tượng trưng chủ quyến lớn hơn ý nghĩa kinh tế. Do không giầu có như Hông Công nên rất nhiều ngưòi Ma Cao thích đến mua sắm tại Chu Hải(Quảng Đông)

9. Ngưòi Bắc Kinh

Là vùng thấy nhiều biết rộng, vừa tiêm nhiễm văn hoá vua quan vừa chịu tàn dư của phong tục con em nhà Mãn, vô cùng lưòi biếng, rất nhiều ngưòi thà ở nhà hưỏng bảo hiểm thấp chứ không chịu đi làm, khá nhiều ngưòi dựa vào tiền bồi thường nhà cửa cổ xưa do cha ông để lại khi phải di chuyển hoặc giá nhà đất gia tăng để sinh sống; có ngưòi là quan thưong dựa vào chính sách mà sống cuộc sống nhàn rỗi, ngưòi béo rất nhiều. Những tiếng tục của Bắc Kinh về cơ bản đều là của ngưòi tỉnh ngoại. Trong các thế hệ sau của Bắc Kinh con nhà giầu sang rất nhiều, chỉ chú ý hưởng thụ.
Phụ nữ rất cởi mở và rất có cá tính. Ngưòi Bắc Kinh muốn học đại học là học được, ngay cả với những truờng nổi tiếng như Thanh Hoa, Bắc Đại, sau khi tốt nghiệp nói chung được các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp ưu tiên tuyển dụng. Chỗ nào ở Bắc kinh cũng có quan, ngay ông lão đạp xe ba gác cũng ra vẻ ta đây vì nhà nào chả có dây mơ rễ má với mấy vị quan. Chính vì thế mới có câu nói ở trên “không đến Bắc Kinh không biết mình chỉ là quan nhỏ”

Hộ khẩu ở Bắc Kinh quí báu lắm, ngưòi Bắc Kinh cũng bài ngoại, nói chung cảm thấy mình là “ngưòi của trung ương”(rất nhiều ngưòi ngoại tỉnh ở Bắc Kinh sau khi trở thành ngưòi Bắc Kinh thì thế hệ sau của họ cũng bài ngoại). Cảnh sát nói chung đặc biệt “chiếu cố” mấy ngưòi ngoại tỉnh. Tuy vậy tính bao dung rất khá(tất nhiên không thể so sánh với Thâm Quyến)

Mở công ty nên hết sức tránh nhận ngưòi Bắc Kinh. Ngưòi Bắc Kinh cái gì cũng minh bạch, nhưng chỉ biết nói mà không thể làm, nghiệp vụ còn giỏi hơn ông chủ(ngưòi Bắc Kinh thích hợp làm nhân viên tài vụ , nhân phẩm đáng tin, lại trốn không nổi). Ngưòi Bắc Kinh mồm lưõi dẻo quẹo.

Tuy vậy nhìn chung ngưòi Bắc Kinh rất lương thiện, có chí khí lớn, có sự đồng cảm, coi trọng nghĩa khí, thích chuyện không đâu, nhất là những việc lớn quốc gia, thích tán chính trị(không ít tin vỉa hè từ đó), được coi là ngưòi có tố chất cao tại Trung Quốc, Ngưòi phát tài ở Bắc Kinh chủ yếu là người ngoại tỉnh, làm quan ở Bắc Kinh cũng chủ yếu là di dân tỉnh ngoài. Ngưòi Bắc Kinh lưòi biếng khó thành việc lớn.

Cùng với việc chính sách được nới rộng, chế độ hộ khẩu ngày càng bớt chặt chẽ, ngưòi tính ngoài đến Bắc kinh cướp cơm ăn tạo nên cảnh ngưòi Bắc Kinh thất nghiệp càng đông, cảm giác mất mát rất lớn. Văn hoá Bắc kinh là sự hoà nhập của nhiều loại, văn hoá thể chế quan phưong, văn hoá của phần tử trí thức và văn hoá dân gian đều ở trạng thái cộng sinh, văn hoá hiện đại chung sống hoà bình với văn hoá truyền thống, cái nào cũng có phong cách riêng, cũng có nét tự hào riêng.

10. Người Thiên Tân

Thật khó tưỏng tượng nổi, ở ngay cạnh Bắc Kinh mà tiếng nói lại vô cùng độc đáo(nghe nói bị ảnh hưỏng của quân đội Hoài của Lý Hồng Chưong), thu nhập về tiền lưong không hơn những ngưòi tương đưong nhưng nằm trong diện rời khỏi công tác, cắt giảm biên chế ở Thẩm Dưong. Đó là một thành phố trực thuộc trung uơng dễ bị ngưòi ta quên.

Tính cách đàn ông Thiên Tân sảng khoái nhưng có suy nghĩ yên tâm với hiện tại không tiến thủ. Là ngưòi nghĩa khí, làm việc quả đoán, rất dễ kết bạn, tính cách phụ nữ đã nam tính hoá, làm vợ không bằng làm bạn, chứi ngưòi không tiếc lời, không hiền lành chút nào!

Ngưòi Thiên Tân bản tính khôi hài.

Thực ra Thiên Tân không phát triển lắm, Bắc Kinh đã hút cạn các vùng xung quanh, Bắc Kinh không hề bị cắt điện, nếu có cắt thì cắt Thiên Tân, Hà Bắc.. Ngưòi Thiên Tân xưa nay không phục ngưòi Bắc Kinh, bóng đá mà gặp nhau là tử chiến! Kiến trúc ở Thiên Tân còn đậm màu sắc văn hoá truyền thống, nghệ nhân dân gian nhiều. Thiên Tân không thích hợp với định cư, dù cát bụi không bằng Bắc Kinh

11. Người Hà Bắc

Từ xưa Yên Triệu đã nhiều tráng sĩ khảng khái bi tráng. Ngưòi Hà Bắc trung hậu vụ thực, cam chịu làm chiếc lá xanh để làm đẹp Bắc Kinh. Vì Bắc Kinh mà chịu cắt điện, chịu ô nhiễm, chịu gió cát. Nội thành phồn hoa không kém ai, nhưng cứ ra khỏi thành phố là thấy những ngôi nhà nông thôn Hà Bắc nghèo nàn. Người Hà Bắc quen nhìn mắt ngưòi Bắc Kinh để làm theo, nhưng học nói tiếng Bắc Kinh thế nào cũng chẳng giống.

Thượng Hải lôi kéo vùng đồng bằng sông Trưòng Giang phát triển, nhưng Bắc Kinh lại hút hết màu mỡ bình nguyên Hoa Bắc! Hà Bắc là vườn rau lớn của Bắc Kinh. Nhiều nguời Hà Bắc làm gác cổng nhà, bầy của hàng bán rau tại Bắc Kinh, thưòng bị những ngưòi quản lý thành thị ở đó khinh thường( một nông dân Hà Bắc do phẫn nộ mà giết một nhân viên quản lý thành phố Bắc Kinh, toà án sợ mâu thuẫn xã hội gay gắt thêm nên chỉ dám xử tử hình hoãn thi hành)Tiếng nói các vùng tại Hà Bắc khác nhau rất lớn. Tiếng Ký Châu Hà Bắc còn khó nghe hiểu hơn tiếng Quảng Đông, còn tiếng Đường Sơn, tiếng Trưong Bắc đều có đặc sắc riêng, tiếng Tần Hoàng đảo, Thừa Đức… lại gần với tiếng vùng Đông bắc.

Phụ nữ Hà Bắc thật thà chất phác lưong thiện, làm vợ rát thích hợp. Rất nhiều nông dân tỉnh ngoài vào Bắc Kinh làm thuê khâm mộ người Hà Bắc: vì lộ phí về nhà vợ chỉ tốn 30 NDT(khoảng chưa tới 1 triệu VNĐ)

12 . Ngưòi Sơn Tây

Nền tảng văn hoá sâu dầy, nhưng cặn bã chiếm đa số. “Mặt vuông, đường nét rõ ràng, mũi ngắn mà to” là hình tượng điển hình của ngưòi Sơn Tây. Ngưòi Sơn Tây thực thà, yên phận, trung thành đáng tin, thích đi bộ tới nơi làm việc. Nhưng đầu óc chưa đủ linh hoạt, đần độn cố chấp, cẩn thận nhưng sợ việc, không có phong cách kinh doanh. Nơi này ngưòi đông đất hẹp, đất đai cằn cỗi, công nghiệp lạc hậu, quan niệm lạc hậu, may mà có nhiều mỏ than. Mặc dù Sơn Tây nghèo nhưng ngưòi giầu không ít, phần lớn là đổi lấy từ xương trắng của công nhân các hầm mỏ trong tỉnh.

Đã từng có nhóm giầu có đến Bắc Kinh, tập thể vơ vét nhà đất, dù ăn vận đúng mốt vẫn không giấu nổi dáng vẻ xấu của bọn mới phất, bị ngưòi Bắc Kinh cười nhạo. Lâm Phần đựoc gọi là thành phố than, năm nay được xếp vào loại thành phố bẩn nhất thế giói. Trong không khí ở Thái Nguyên, Đại đồng có nhiều hạt sạn than. Khó tìm đựoc một nơi non xanh nuớc biếc tại Sơn Tây.

Những kẻ làm quan ở Sơn Tây vô cùng ngu muội, thích ra vẻ ta đây, lên thêm một chức là đã có ngưòi chết, chính quyền mà như nha môn. Đàn ông tuy đáng tin nhưng bủn xỉn. Ngưòi Sơn Tây nổi tiếng vì hà tiện. Ngưòi Sơn Tây dù ăn vận “nhà quan” vẫn không hợp thời, ăn uống giản dị, và ăn gì cũng phái có dấm, Phụ nữ mặc dù coi trọng đạo lý nhưng khi làm vợ cũng có chút sĩ diện. Thương nhân Sơn Tây đi khắp thiên hạ, nhưng vẫn “lá rụng về cội”, thưòng đặt tổng bộ của mình tại mấy nơi nho nhỏ thuộc tỉnh quê hưong cho nên không phát triển được.

13. Người Nội Mông Cổ

Ở đây chủ yếu nói về phần phía tây Nội Mông, vì nguời dân từ Xích Phong trở về đông nói tiếng Đông Bắc. Mặc dù là khu tự trị nhưng hiện nay người Hán chiếm đa số. Thể hình ngưòi Mông Cổ thô khoẻ, mặt rộng tai lớn, con mắt như có thần, trán nhô, tóc quăn, tiếng nói kêu vang, cánh tay dài hơn nguời, trông uy vũ nhưng là cái dũng của kẻ thất phu. Có tấm lòng thiện lương, đôn hậu với người, tính cách sảng khoái, dám yêu dám ghét, ít có đường ngang ngõ tắt, uống rượu khoẻ, rất nhiều ngưòi đã Hán hoá. Ngưòi Hán ở phần tây Mông cổ rất giống ngưòi Tây Bắc dù đựoc gọi là Hoa Bắc, tiếng nói có màu sắc Tây Bắc, thật thà, an phận thủ cựu, không làm quan và buôn bán được. Bao Đầu, Hô Hoà Hạo(thành phố gang thép lớn của Trung Quốc và thủ phủ của Nội Mông) chủ yếu là ngưòi Hán di dân tới, không có nền tảng văn hoá gì,

14 . Ngưòi Đông Bắc(gồm 3 tỉnh Hắc Long Giang, Liêu Ninh, Cát Lâm và phần phía đông khu tự trị Nội Mông Cổ)

Sở dĩ gộp lại để nói vì ngôn ngữ, phong tục các vùng này rất giống nhau. Thời cổ đại Đông Bắc là vùng đất hoang dại, ngưòi Hán ngày nay ở đó chủ yếu là thế hệ sau của những ngưòi di dân nghèo khổ Sơn Đông, Hà Bắc, cũng từng là thiên đưòng của những tội phạm bị lưu đầy, những kẻ sát nhân vượt ngục trốn tội từ trung nguyên tới, chỉ trong nửa thế kỷ mà đã chịu sự thống trị của Thanh, Nga, Nhật, quân phiệt, Trung Hoa Dân Quốc, CHND Trung Hoa, ở trong tình trạng vô pháp vô thiên lâu dài, Cộng thêm sự hoà nhập Mãn, Mông, Triều, khí hậu rét mướt, đất đai rộng lớn đã hình thành nên nền văn hoá Đông Bắc độc đáo, là vùng có sự khác biệt gien lớn nhất(di truyền học cho rằng khác biệt gien càng lớn nhân chủng càng ưu tú)

Chiến dịch Bình,Tân và Liêu, THẩm chủ yếu là nhờ ngưòi Đông Bắc đánh, sau chiến dịch vượt sông, dã chiến quân số 4 do Lâm Bưu lãnh đạo đã đánh một mạch đến đảo Hải Nam, ngưòi Đông Bắc có tâm trạng lập công, lập nghiẹp, nổi tiếng rất mạnh. Đông Bắc đã từng là vùng công nghiệp phát triển nhất Trung Quốc, đựoc gọi là “con trai cả cửa nứoc Cộng Hoà”. Cho đến bây giừo vẫn là vùng có trình độ giáo dục cao nhất và giao thông phát triển nhất Trung Quốc. Hiẹn nay Đông Bắc là nơi có nhiều cán bộ công nhân viên phải rời bỏ công viẹc nhiều nhất, thưong nhân phần lớn là buôn bán nhỏ, không có lý tưởng cũng như gánh nặng cao xa, có thể nói là “to gan khi đánh trận, bé gan khi kinh doanh”.

Mấy năm gần đây đã xuất hiện một loạt nhân tài, số ngưòi giầu nổi tiếng không ít, và có nhiều ngưòi làm quan trong chính quyền . Ngưòi Đông Bắc là ngưòi có ưu khuyết điểm về tính cách rõ ràng nhất trong các ngưòi Trung Quốc(nam, nữ khác nhau biệt không lớn), nội tâm cưong nghị, bề ngoài mạnh mẽ, tính cách hào sảng, to gan, trọng nghĩa khí coi thưòng luật pháp, dễ kết bạn, thưòng nói : “đừng nói đến tiền, nói đến tiền là tình cảm xa rời mất”.

Rất dũng cảm, đấu tranh mạnh(kẻ trộm cắp Tân Cưong tinh ác nổi tiếng cả nứoc nhưng không dám tới Đông Bắc làm ăn).Ngưòi Đông Bắc thấy viẹc nghĩa là làm thích những việc không đâu. Phần đông ngưòi Đông Bắc rất lưong thiện, có lúc nhiệt tình đến mức ngưòi ta khó tiếp nhận. Có một số rất ít lòng dạ hẹp hòi, thích làm phỉ, xảo quyệt hung ác nên chú ý phòng ngừa.

Người Đông Bắ không cao to như một số miêu tả. Ngưòu Đông Bắc thích đánh nhau mà không tính hậu quả, khi đánh nhau ngưouì Đông Bắc thưòng tìm vũ khí nơi gầm nhất, chuyên đánh vào chỗ nguy hiểm(không ai muốn đánh nhau với ngưòi Đông Bắc) dễ bị lợi dụng làm kẻ giết ngưòi đánh thuê. Nhiều hộp đêm thích thuê ngưòi Đông Bắc làm bảo vệ. Tội phạm bạo lực ở Bắc Kinh chủ yếu là do ngưòi Đông Bắc làm, thu lộ phí đen trên mấy con đường ở Bắc Kinh về cơ bản đều là ngưòi Đông Bắc, tổ chức xã hội đen trên thị trường bán buôn tại Bắc Kinh đều do ngưòi Đông Bắc làm chủ

Xã hội đen tại Quảng Châu, Thâm Quyến, Hải Nam phần đông là ngưòi Đông Bắc, gần đây tại hầu hết các thàng phó lớn và vừa trong nứoc đều có nhóm tội phạm Đông Bắc xuất hiện(và cả tại Đông Âu, Nga, Bắc Mỹ, Nhật) địư phưong có tửu lưọng lớn nhất Trung Quốc, tỷ lệ phụ nữ hút thuốc lá uống rượu cao nhất,

Có nhiều mỹ nữ, thân cao, chân dài, nhưng da không mịn lắm, tính cách quá bộc trực, thậm chí ngay trên xe công cộng cũng ăn to nói lớn.Gốc nền văn hoá quá mờ nhạt, thích trang điểm nhưng lại không biết trang điểm, Thế nhưng con gái Đông Bắc lại ngu dại đến đáng yêu, thích ai dù chết cũng không rời, hận ai có thể giết người không run tay, muốn lấy con gái Đông Bắc phải có sự chuẩn bị về tư tưỏng. Tuy vậy có số ít gái Đông Bắc không thua kém “em gái Xuyên”, “em gái Tưong” trong nghề.

Ngưòi Đông Bắc tưong đối thông minh nhưng chịu khổ kém nên số nông dân vào thành phố làm thuê rất ít, và cũng ít ngưòi chuyên tâm làm kỹ thuật, tuy vậy có khả năng mở quán ăn, công ty.

Mấy năm gần đây, ngưòi Đông Bắc di dân tới Bắc Mỹ, Đông Âu tăng vọt, có một số ngưòi đã lập nên sự nghiệp, nhưng cũng có một số ngưòi bôi đen Trung Quốc. Tỷ lệ ngưòi Đông Bắc phạm tyội tại Bắc Kinh, khẳng định cao hơn người Hà Nam, có khả năng là tiếng nói có phần giống nhau cộng thêm nguời Đông Bắc và ngưòi Bắc Kinh có hàng ngàn mối liên hệ, số ngưòi công khai chửi nguời Đông Bắc tương đối ít hoặc là không dám chửi.

So sánh thêm, thấy ngưòi Liêu Ninh tròn trịa, kinh tế cũng phát triển nhất. Cơ sở thể dục thể thao như điền kinh, các loại bóng lớn là tỉnh tốt nhất trong các tỉnh. Ngưòi Hắc Long Giang tưong đối thô lỗ, giỏi hạ thủ Bắc Đại hoang mà(xã hội đen bức xạ cả nước) . Ngưòi Cát Lâm tưong đối quê có chú dụt dè “trứoc có sói, sau có hổ”sói là Liêu Ninh, hổ là Hắc Long Giang Điều kỳ lạ là tiếng Cáp Nhĩ Tân là tiếng vùng Đông Bắc gần gũi nhất với tiếng Bắc Kinh. Tiếng nói Đại Liên càng giống tiếng vùng Giao Đông. Ngưòi Đại Liên có cảm giác ưu việt, nhưng tưong đối hư vinh, cho là Đông Bắc chỉ có Đại Liên là đựoc, các thành phố khác đều chẳng ra sao.

Đàn ông Đông Bắc nói năng ngọt ngào, giỏi nịnh phụ nữ, nhưng đa số có khuynh hướng coi đàn ông là nhất, có ngưòi đánh vợ.

15. Người Sơn Đông

Quê hưong Khổng Mạnh, tỉnh của lễ nghiã, từ xưa Sơn Đông đã có nhiều tuớng, nhiều kẻ sĩ trung nghĩa.Có thể là do quá thẳng thắn nên ít có nhà âm mưu và hoàng đế. Hình tượng của người Sơn Đông nói chung khá tốt, đàn ông có tinh thần trách nhiệm cao, trung hậu, bộc trực, nặng tình người, trọng hiếu thuận, bên ngoài thô lỗ, bên trong tốt đẹp, được văn hoá nhà Nho tôi rèn, đặc biệt coi trọng quan hệ giao tiếp và tôn trọng đẳng cấp.

Quan niệm gia đình mạnh, rát thích hợp làm bố chồng; phụ nữ hiền hậu lo việc nhà, nhưng ngang ngựoc, chân tưong đối to, tiếng nói rất khó nghe. Ý thức quê cha đất tổ của người Sơn Đông rất nặng lòng tự hào rất mạnh. Ngưòi Sơn Đông nấu rượu giỏi nhưng phần lớn là rượu kém chất lượng. Ngưòi Sơn Đông thích ăn hành tỏi, nên phần lớn đều hôi mồm, nhưng ít ngưòi mắc bệnh ung thư, nói chung.ăn ít rau, cứ có hành tỏi là được.

Người Sơn Đông thích ăn màn thầu(bánh bột mì hấp không nhân) thân người cao lớn. Tíếng Sơn Đông nghe có vẻ thân thiết. Vùng ven biển rất giàu, nhất là vùng Thanh Đảo, Yên Đài, nghe nói kinh tế Sơn Đông sẽ nhanh chóng vượt Quảng Đông để trở thành nhất nứoc.

Quan niệm của ngưòi Giao Đông tưong đối mạnh, nhièu ngưòi Thanh Đảo cho rằng làm ngưòi Sơn Đông có chút thiệt. Đội bóng đá Thanh Đảo thi đấu quyết tử với đội bóng của tỉnh. Phụ nữ Thanh Đảo rất thời thưọng, mỹ nữ không ít, Một vài nơi trong tỉnh còn nghèo.

16. Ngưòi Giang Tô

Miền nam Giang Tô và miền bắc Giang Tô hoàn toàn không giống nhau. Miền nam mưa thuận gió hoà là nơi có nhiều tài tử giai nhân, trong lịch sử số ngưòi đỗ tiến sĩ đều nhiều hơn bất kỳ tỉnh nào, các đại gia nghệ thuạt, đại gia văn học, bậc thày khoa học đời nào cũng nhiều. Người nam Giang Tô nhã nhặn, có nhiều môn đệ thư huơng, nhà ở đẹp, món ăn ngon, con gái cũng đa tài đa nghệ, dịu hiền mê ngưòi( làm vợ rất tốt nhưng hay tiếng to tiếng nhỏ) . Nơi này mưa phùn nhièu, gió lành thổi khắp, ngay nam giưói cũng có tướng phụ nữ, da mịn, nói năng nhẹ nhàng, hành động từ tốn, giỏi tính toán, nhưng tinh ranh quá. Ngưòi ở đây rất thông minh khí chất thư sinh rất nồng, số ngưòi ra ngoài học tập đứng đầu cả nứoc.

Ngưòi nam Giang Tô rất tôn trọng pháp luật, trị an ở Nam Kinh, Tô Châu cũng đứng hàng đầu, kẻ gian trong khoa học phần lớn là ngưòi An Huy và bắc Giang Tô.Đàn ông Giang Tô nhu nhựoc dễ bị bắt nạt. Năm 1937, ngưòi Nhật một lúc sát hại hơn 30 vạn người mà nhiều người chạy không kịp. Năm 1644 quân Thanh vây thành Dưoing Châu, Giang Âm, một lính Mãn Thanh có thể giải 60 ngưòi ra pháp trưòng mà không phải trói, rồi lần lượt chém từng người, mà không ai dám chạy/

Từ Châu là trung tâm của vùng bắc Giang Tô, ngưòi ở đây cao lớn.

Trước đây động một chút là khởi nghĩa, sau này lại nhiều ăn mày(trong lịch sử bắc Giang Tô, bắc An Huy nổi tiếng vì có nhiều ăn mày) Có tiền cũng đi ăn xin. Tiếng Từ Châu giống mà lại không giống tiếng Sơn Đông, tiếng Hà Nam, tự thành một giọng riêng. Bắc Giang Tô kinh tế tương đối lạc hậu, hình tưọng tại bên ngoài không hay lắm,, nhất là tính thích chiếm lợi nhỏ nổi tiếng số một. Trong bản tìm bạn trai của một cô gái Thượng Hải đã ghi “nhân sĩ bắc Giang Tô xin miễn bàn”

17. Người Thựơng Hải

Thượng Hải là thành phố phát triển nhất của Trung Quốc, tính bao dung kém, thịnh hành tiếng địa phương, ngưòi ngoại tỉnh khó hoà nhập. May mà không phải là thủ đô, nếu không ngay ngưòi Bắc Kinh cũng không coi ra gì, với ngưòi Thượng Hải ngưòi ngoại tỉnh nhất loạt đều là “dân nhà quê”. Thế nhưng Thưọng Hải mới có hơn một trăm năm lịch sử, có tới 1/3 dân Thưọng Hải là di dân Ninh Ba. Phụ nữ Thượng Hải cử chỉ dễ nhìn, ăn nói hoà nhã rất có phong cách nữ giới. Nhưng con gái Thưọng Hải không thích hợp với ngưòi ngoại tỉnh, phần lớn chỉ thích lấy chồng Nhật, chồng Hàn quốc, trong đó lấy chồng Nhật là lý tưỏng của không ít cô.. Đàn ông Thượng Hải tiểu khí, tự tư, tính toán chi li, thưòng cãi vã hồi lâu trên đường phố, nhát gan, sợ vợ, thậm chí giặt cả đồ lót cho vợ, thưòng bị gọi là “thằng nhỏ”

Thực ra nếu nhìn từ góc độ khác sẽ thấy nam giói Thưọng Hải rất tôn trọng nữ giưói, chăm sóc vợ chu đáo. Trong tư giao người Thưọng Hải tương đối có lỹ trí, có thể là bạn tri âm về tinh thần. Cho nên có không ít nhà ngân hàng, thương nhân và học giả ngưòi thi nhân, nhưng khó có nhà thơ, võ tưóng và hiệp khách. Thương nhân Thưọng Hải đều là người tinh thông nghề nghiệp, vừa thông thạo hàng hoá vừa giỏi lý. Ngưòi Thưọng Hải kiếm tiền không giỏi, nhưng có tư cách, sinh hoạt nghiêm túc, biết giữu chữ tín, tông trọng luật pháp. Chất lưọng sản phẩm ThưọngHải đứng đầu cả nứoc. Ngưòi Thưọng Hải không tranh giành với người, thích hợp với việc kết bạn nhưng trước tiên phải làm cho họ nể mình.

18. Người An Huy

Từ xưa An Huy đã là nơi cùng khổ, ở giữa sông Trường giang và sông Hoài, thiên tai không dứt, mỗi lần chấe tranh, loạn lạc đều không tránh An Huy. Người An Huy linh hoạt mềm dẻo không bằng người phương nam. cương nghị dũng mãnh không bằng người phương bắc, là tính cách quá độ của ngưòi phương bắc và ngưòi phương nam. Đàn ông An Huy chất phác ít nói, giỏi và nhanh nhạy trong suy nghĩ, chịu khổ được, kỹ thuật khá. Con gái An Huy mông lung, da trắng toát. 


Huyên Vô Vi nổi tiếng là tỉnh có nhiều bảo mẫu trong cả nước. Người An Huy giữ được nhiều mỹ đức truyền thống của dân tộc Trung Quốc. An Huy là tỉnh lớn có nhiều nông dân vầo thành phố làm thuê(sau tết nguyên đán có từng đoàn chuyên xa chở nông dân vào thành phố làm thuê quay lại Thưọng Hải) dân An Huy trên công trưòng khá nhiều.Tuy vậy thuơng nhân huyện Vi xưng hùng thế giới 300 năm. An Huy có ảnh hưỏng rất sâu xa tới chính trị và văn hoá cận đại Trung Quốc
Kinh tế An Huy hiện nay không nổi bật, thậm chí GDP không bằng một thành phố Tô Châu, Vô Tích, Thưòng Châu. Kêu gọi đầu tư khó, doanh nghiệp vừa mở cửa đã bị các loại phí làm sụp đổ, không làm anh chết cũng khiến anh phải bỏ chạy. Luôn mồm nói học Chiết Giang, học Sơn Đông nhưng chỉ học trên miệng, càng học khoảng cách càng lớn. Phựng Dưong là huyện thực hiện khoán đến hộ sớm nhất nước nhưng nay vẫn nghèo.

An Huy là tỉnh địa linh nhân kiệt, nhân tài ưu tú rất nhiều, mỗi năm chạy ra tỉnh ngoài không ít. Thượng Hải là nơi ngưòi An Huy muốn tới nhất, nhưng về có bản người Thượng Hải lại coi ngưòi An Huy không ra gì. Nam Kinh là thành phố gương mẫu cả nước về trị an, tội phạm chủ yếu ở đó là người An Huy. Gạo nhiễm độc, thuốc giả đã huỷ hoại danh tiếng An Huy. Hợp Phì, và Trịnh Châu tập trung nhiều công ty lừa gạt. Nam An Huy phong cảnh rất đẹp là nơi du lịch phát triển.

19. Ngưòi Chiết Giang

Từ xưa là vùng đất hoang dại. Từ sau đời Đông Tấn khi mở mang Giang nam mới đựoc khai thác. THời Nam Tống trở thành vùng giàu nhất Trung Quốc. Chiết Giang nhiều sôngnhiều núi, tiếng địa phương phức tạp như Phúc Kiến, tiếng Hàng Châu,tiếng Thiệu Hưng, tiéng Ninh Ba, tiếngd Đài Châu, tiếng Ô Châu chẳng ai nghe hiểu ai. Chiết Giang là tỉnh văn hoá lớn của Trung Quốc, có nhiều nhân tài”Giang nam nhiều sông nhiều núi nhiều tài tử”, nhưng hiện nay về giáo dục, khoa học, y tế, thể dục thể thao đều kém Giang Tô nhiều.

Trong lịch sử Chiết Giang đã từng có nhiều đại thưong nhân giàu có nhất thiên hạ, tài phiệt Chiết Giang là cơ sở của chính quyền Tưỏng Giói Thạch. Thương nhân An Huy là nhóm người biết kiếm tiền nhất nước. Đầu óc người Chiết Giang linh hoạt, giỏi suy tính, biết cách thay đổi., đoàn kết, thực tiễn. Phụ nữ dịu dàng như nước, chịu được khổ, buôn bán không thua nam giới . Giầy da và quần áo của ngưòi Ôn Châu bán khắp thế giới. Ngưòi Chiết Giang đặt chan hàu như trên mọingành nghề của Trung Quốc như nhà đất, điện, khai thác mỏ, xây dựng, internet, kỹ thuật cao v.v… Trứoc đây Chiết Giang là tỉnh xuất khẩu lao động lớn nhưng hiện nay ít thấy nông dân Chiét Giang vầo thành phố làm thuê vì họ đã hoàn thành tích luỹ tư bản nguyên thuỷ. Ngưòi Chiết Giang lấy bốn biển làm nhà, như kiến chạy khắp thiên hạ, hầu như xó xỉnh nào cũng có ngưòi Chiết Giang. Thương nhân Chiết Giang mà Ôn Châu là đại biểu được gọi là “người Do Thái Trung Quốc”.

Năng lực sinh tồn của ngưòi Chiết Giang khiến ngưòi phương tây khiếp sợ. Trong đầu óc người Chiết Giang, buôn bán không có vùng miền, thị trưòng không có giới hạn. Chỉ cần kiếm được tiền thì dù là khuy áo, bật lửa, kính bút, giầy dép họ đều làm tất. Có tới 5 triệu người Chiết Giang thành đạt ở ngoài. Ngưòi Chiết Giang kinh doanh nhà đất khắp nước, khai thác than ở Sơn Tây, bán quần áo, giầy dép ở châu Âu, thậm chí mở siêu thị ở châu Phi.
Nhưng cũng có nhiều thưong nhân ngưòi Chiết Giang làm hàng giả bán hàng giả, buôn lậu.@ nhặt trên NET, không rõ nguồn.

NGUYỄN HỮU QUÝ TIẾP TAY CHO TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC VIỆT NAM

Ong Bắp Cày


Ông Nguyễn Hữu Quý có bài "Liên minh Việt - Mỹ, một tất yếu của lịch sử Việt Nam hiện đại" đăng trên Bô Shit và Tễu (Nguyễn Xuân Diện) và nhận được nhiều phản ứng từ cộng đồng mạng.

Với tư cách cá nhân, xin có vài ý kiến;

1. Ông Nguyễn Hữu Quý viết bài này với mục đích kêu gọi một liên minh Việt - Mỹ, nhằm thoát khỏi tình cảnh bị Trung Quốc chèn ép như hiện nay. Nếu như, mục đích của ông là chỉ là như vậy thì cũng đáng trân trọng.

2. Ông Nguyễn Hữu Quý viết trong bài với đoạn mào đầu: "Sau hơn một tháng Trung Quốc đưa giàn khoan Haiyang Shiyou 981 (HD981) trái phép vào vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, người Việt có cơ hội để hiểu thêm về sự sai lầm của lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam) khi đặt mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc như là một quan hệ chủ đạo trên con đường xây dựng và phát triển Đất nước", thì tôi nghĩ, thực chất là ông viết bài này để nói xấu và bôi nhọ Đảng Cộng sản Việt Nam, và nó được khoác lên tâm áo nhung với thông điệp lo lắng cho sự an nguy của đất nước mà thôi. Đoạn tô đậm ở trên đã nói rõ điều này.

3. Trong đoạn 1: "Một thế giới không thể có "hai vua" mà ông dẫn dụ tôi thấy nó nực cười vì sự biến thái của tâm hồn và nhân cách của ông. 

Có thái quá khi ông muốn tôn vinh Mỹ thành vua của thế giới này, và bổn phận của chúng ta chỉ là biết dựa dẫm vào vua mà sống? Chả lẽ ông quên chân lý "không có gì quý hơn độc lập tự do", và mọi dân tộc đều bình đẳng? 

Cái kém cỏi của ông thể hiện ở việc ông muốn "Thoát Trung". Nhưng cuối cùng lại muốn dựa dẫm vào Mỹ và lại lệ thuộc vào Mỹ. Đến tận thế kỷ này, sau bao biến cố lịch sử, đất nước ta mới có được như hôm nay ông có biết là nhờ vào đâu không? Đó là "tự lực, tự cường" đấy ông ạ. Sống mà chỉ mong chờ sự bố thí của người khác, không biết tự bảo vệ mình thì sống làm gì?

4. Liên quan đến đoạn 1, đoạn 2 ông ca ngợi nước Mỹ là môt dân tộc nhân bản. Điểm này tùy theo cách nhìn của mỗi người. Tôi không phủ nhận nước Mỹ hiện nay vẫn đang là cường quốc số 1 thê giới cả về kinh tế lẫn tiềm lực quốc phòng, và các chỉ số tự do. Điều đó chúng ta đáng học tập lắm. Tuy nhiên, ông chỉ cần vào mạng và gõ cụm từ "nhân quyền kiểu Mỹ", hay "các giá trị Mỹ", hoặc "tội ác của Mỹ" thì ông sẽ biết ngay kết quả, và nó chính là một minh chứng cho sự"hoàn thiện" của nước Mỹ.

Một điều nữa, xin nhắc để ông Quý biết rõ nhé: Ngay tại Việt Nam, thời Việt Nam Cộng Hòa, đã có bao nhiêu chính phủ là đồng minh của Mỹ, và cuối cùng phải đón nhận cái kết cục bi thảm? Ví dụ như thế này để ông thấy rằng ông đang ngộ nhận: 

- Ngô Đình Diệm có là đồng minh của Mỹ không? hãy đọc câu nói của TT Ngô Đình Diệm: "Biên giới của Mỹ không ngừng ở Đại Tây dương và Thái Bình Dương, mà kéo dài ở Đông Nam Á, tới sông bến hải, ở vĩ tuyến 17 của Việt Nam". Đấy, ông Diệm trung thành với Mỹ như thế đấy. Vậy vì sao ông ta lại bị chính người Mỹ ra lệnh giết chết một cách bị thảm như thế?

- Nguyễn Văn Thiệu có là đồng minh của Mỹ không? vì sao ông Thiệu lại phải thốt lên đau đớn rằng, "Nếu Hoa kỳ mà không viện trợ cho chúng ta nữa thì không phải là một ngày, mà chỉ sau 3 giờ, chúng ta sẽ rời dinh Độc lập". và "Mỹ còn viện trợ thì chúng ta còn chống cộng". Liên minh chặt chẽ đấy chứ phải không ông Nguyễn Hữu Quý? rồi thì kết cục ra sao? Mỹ đã bỏ Thiệu và liên kết với Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam, và cuối cùng thì Thiệu cũng phải chui ống đồng tháo chạy khỏi Việt Nam sống đời vong nô.

- Còn rất nhiểu những phát biểu cay đắng của tướng lĩnh thời Việt Nam cộng hòa. Ông nên phóng to hình này để đọc cho tiện:


Những gì nói ở trên, hẳn ông Quý đã có thể hiểu và rút ra kết luận cho bản thân mình.

Tiện đây cũng nói, ông nhắc lại sự kiện ở "Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á - Đối thoại Shangri-La lần thứ 13” (31/5-02/6) vừa rồi, giữa Mỹ và Trung Quốc đã có một cuộc họp kín, và tại cuộc họp đó, Trung tướng Vương Quán Trung (Wang Guanzhong) – Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc, đưa ra lời đề nghị: “Mỹ hãy cùng hòa giải và cùng hợp tác giữa quân đội các ngài với quân đội Trung Quốc", để có ý nói là Trung Quốc không đáng tin, và hãy tin Mỹ. Liệu ông có chắc như ông kết luận không, có gì đảm bảo rằng giữa Mỹ và Trung Quốc không một lần nữa thỏa thuận trên lưng người Việt Nam?

Viết đến đây, chắc chắn ông Nguyễn Hữu Quý đã nhận ra Hoa Kỳ là dân tộc nhân bản như thế nào rồi phải không?

5. Không chấp đoạn 3 của ông vì nó là lập luận trẻ con, dựa trên phép quy nạp không hoàn toàn. Đoạn 4 và đoạn 5 của ông mới lộ rõ tâm địa của ông với đất nước.

Ở 2 đoạn này, ông có vẻ khoái trá, hí hửng vì: 
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa bị Bắc Kinh “tặng” cho hai cú đánh hiểm hóc, rất khó để gượng dậy trước Nhân Dân cũng như trong con mắt thế giới. Đó là:
- Sự trơ lỳ của Bắc Kinh sau khi đưa giàn khoan HD981 xâm phạm chủ quyền Việt Nam; Bắc Kinh đã từ chối gặp gỡ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cũng như từ chối các cuộc đối thoại. Đường dây nóng được lập giữa nhiều ban ngành của hai bên, lúc này như không hoạt động, do phía Bắc Kinh coi thường Việt Nam mà không thèm nhấc máy.
- “Công thư Phạm Văn Đồng”, mà lần đầu tiên, một trong những người đại diện cho giới “sĩ phu Bắc Hà”, ông Nguyễn Khắc Mai, lên tiếng và gọi đó là: “rất phản động”, “Một công hàm có tác hại phản quốc phải hủy bỏ”.
Rồi đây, Bắc Kinh sẽ đưa ra nhiều bằng chứng khác nữa, trong số đó có thể là những cam kết tại “Hội nghị Thành Đô” (9/1990), mà đến hôm nay, “Hội nghị” này chỉ có số rất ít người Việt mới biết được. Rất có thể, Bắc Kinh sẽ tạo ra mâu thuẫn, khiến cho hai bên đối đầu và tạo cớ để “dạy cho Việt Nam một bài học nữa” trong thời gian tới, nhằm thể hiện sức mạnh, cũng như chuyển mâu thuẫn nội bộ ra ngoài".
Sự khốn nạn của một kẻ chống phá đã lộ rõ. Khỏi phải bàn cãi. Nói tóm lại, ông rất hào hứng khi đảng cầm quyền bị đối phương coi thường, và chính ông lại nối giáo cho giặc Trung Quốc khi tỏ ý công nhận cái gọi là "Công hàm Phạm Văn Đồng" qua bài viết của một kẻ nặc nô có tên Nguyễn Khắc Mai.

Lịch sử dân tộc đã chứng minh, Việt Nam luôn luôn tự lực cánh sinh trong đánh đuổi ngoại xâm, đồng thời luôn coi trọng sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế. Bảo vệ mình, trước hết phải biết dựa vào sức mình, lượng được sức mình, chớ nên trông chờ vào sự giúp đỡ nào đó, và càng không thể chấp nhận tìm đến một sự lệ thuộc nào đó. 

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu tại Shangri-la rằng: "Không thể đánh đổi chủ quyền lấy thứ hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó".Tôi nghĩ, một người bình thường cũng có thể hiểu được câu nói này, bởi nó là thông điệp mà người dân Việt Nam muốn gửi đến toàn thể nhân dân thế giới.

Ông Quý ạ, đã ngu thì không nên tỏ ra nguy hiểm! 

Tôi cũng ngạc nhiên khi người ta gọi ông là Giáo sư Nguyễn Hữu Quý cơ đấy. 

TUYÊN PHẠT NGUYỄN ĐỨC KIÊN 30 NĂM TÙ

Sáng 9/6, sau 20 ngày xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên án đối với Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm (bị Viện Kiểm sát nhân dân tối cao truy tố về 4 tội danh: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, Trốn thuế và Kinh doanh trái phép.

Tòa tuyên án phạt: Nguyễn Đức Kiên (sinh năm 1964, trú ở phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội) lĩnh án tổng cộng 30 năm tù về cả 4 tội danh nêu trên. Ngoài án phạt tù, bị cáo Kiên còn bị tuyên buộc nộp phạt hơn 75 tỷ đồng.

Hai bị cáo: Trần Ngọc Thanh (Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội) bị phạt 5 năm 6 tháng tù; Nguyễn Thị Hải Yến (Kế toán trưởng Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội) bị phạt 5 năm tù về cùng tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Ở nhóm bị cáo bị kết tội về hành vi “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, hai bị cáo đều nguyên là Phó Chủ tịch Ngân hàng ACB gồm: Lê Vũ Kỳ bị phạt 5 năm tù và Trịnh Kim Quang bị phạt 4 năm tù; Lý Xuân Hải (nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng ACB) lĩnh 8 năm tù, Phạm Trung Cang (nguyên Phó Chủ tịch HĐQT ACB) lĩnh 3 năm tù, Huỳnh Quang Tuấn (nguyên thành viên thường trực HĐQT ngân hàng ACB) lĩnh 2 năm tù. 

Trong số các bị cáo, riêng ông Trần Xuân Giá (nguyên Chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB) được tạm đình chỉ vụ án do đang mắc bệnh hiểm nghèo.

Hội đồng xét xử nhận định, Nguyễn Đức Kiên thông qua 6 công ty đã kinh doanh không đúng đăng ký hơn 21.400 tỷ đồng. Các công ty này không có giấy chứng nhận kinh doanh cổ phần, cổ phiếu, thực tế không có hoạt động kinh doanh gì khác ngoài lĩnh vực này. Điều đó cho thấy, mục đích lập các công ty trên của Kiên chủ yếu là để kinh doanh cổ phần, cổ phiếu. Hành vi kinh doanh của bị cáo Kiên núp dưới hình thức mua cổ phần, cổ phiếu, đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội kinh doanh trái phép.

Về hoạt động kinh doanh vàng, Hội đồng xét xử cho rằng Công ty Thiên Nam không đăng ký kinh doanh "mặt hàng" này. Ngoài kinh doanh giá vàng qua tài khoản nước ngoài, Thiên Nam còn kinh doanh vàng trong nước với ngân hàng ACB. Theo quy định, kinh doanh vàng nói chung đều phải đăng ký. Theo biên bản thỏa thuận của HĐQT, Công ty Thiên Nam đã ủy quyền cho Kiên đặt lệnh trên hệ thống ghi âm của ngân hàng ACB. Điều đó cho thấy, việc thực hiện ký các lệnh của giám đốc Thiên Nam Lê Quang Trung chỉ là hình thức, Kiên mới là người quyết định. Vì vậy, việc bị cáo Kiên cho rằng ông Trung phải chịu trách nhiệm là không có căn cứ.

Về hành vi trốn thuế, theo Hội đồng xét xử, trong năm 2009-2010, B&B kinh doanh có lãi, trong đó có cả kinh doanh vàng trạng thái có lãi nhưng không kê khai. Kết luận của Bộ Tài chính cho thấy, thuế thu nhập phát sinh mà B&B phải nộp là hơn 25 tỷ đồng. Số tiền trốn thuế này, đến nay Kiên vẫn chưa khắc phục, cần phạt gấp 3 lần số thuế đã trốn là hơn 75 tỷ đồng, sung công quỹ nhà nước.

Kiên khai không có ý thức lừa đảo chiếm đoạt số tiền 246 tỷ đồng bán cổ phiếu trên cho phía Hòa Phát. Thực tế khi Kiên nhận 264 tỷ đồng của công ty Hòa Phát, Kiên đã không có bất cứ hành vi nào về việc đề nghị giải chấp số cổ phần này. Điều đó cho thấy ý thức chiếm đoạt của bị cáo Kiên.

Về hành vi cố ý làm trái, Hội đồng xét xử xác định việc HĐQT ACB ra nghị quyết đồng ý ủy thác cho nhân viên gửi tiền là "hoàn toàn sai". Dù Vietinbank hay Huyền Như phải chịu trách nhiệm số tiền trên thì ACB vẫn chưa thu hồi được. Hành vi của các bị cáo đã dẫn đến hậu quả mất 718 tỷ đồng nên các bị cáo Kiên, Quang, Kỳ, Hải, Cang, Tuấn… có đủ dấu hiệu phạm tội Cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Về trách nhiệm dân sự, 718 tỷ đồng đã được giải quyết trong vụ án Huyền Như nên không giải quyết trong vụ án này.

Theo Hội đồng xét xử, vụ án này Huỳnh Thị Bảo Ngọc (cán bộ ACB) là người trực tiếp liên hệ với Huyền Như về việc gửi tiền, thỏa thuận lãi suất vượt trần, tạo điều kiện cho Huyền Như chiếm đoạt. Việc Huyền Như chiếm đoạt trót lọt có sự giúp sức của Bảo Ngọc nên cần khởi tố Bảo Ngọc về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Hội đồng xét xử xác định bị cáo Kiên giữ vai trò quan trọng, chủ mưu, không khai báo thành khẩn.

Bị cáo Lý Xuân Hải có vai trò sau bị cáo Kiên nhưng cao hơn những đồng phạm khác. Bị cáo Hải bị xác định là người điều hành ủy thác cho nhân viên gửi tiền, tham gia chủ trương mua cổ phiếu... Theo tòa, hai bị cáo này cần áp dụng tình tiết tăng nặng hình phạt. Tiếp tục kê biên các tài sản của bị cáo Kiên tại thành phố Hồ Chí Minh. Các bị cáo còn lại được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tòa kiến nghị qua vụ án, Ngân hàng nhà nước cần rà soát lại các văn bản, bổ sung các văn bản nhằm tháo gỡ những vướng mắc, hướng dẫn kịp thời chủ trương cho các ngân hàng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cần rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật. 

Tại bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cũng đã tuyên bố khởi tố vụ án "kinh doanh trái phép tại ngân hàng ACB và Vietbank" và khởi tố vụ án "Huỳnh Thị Bảo Ngọc đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Huỳnh Thị Huyền Như".

Kim Anh