Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

CÙ HUY HÀ VŨ LÀ AI?

Cù Huy Hà Vũ là người thế nào? - Trần Chung Ngọc

Cù Huy Hà Vũ sẽ được phúc thẩm lại sau hơn 1 ngày nữa, và đây là cơ hội để chúng ta nhìn nhận lại nhân vật này 1 lần nữa qua entry dưới đây của giáo sư Trần Chung Ngọc:

Tôi đã đọc khá nhiều về Cù Huy Hà Vũ trên những diễn đàn thông tin ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Lẽ dĩ nhiên những người hành nghề chống Cộng ở hải ngoại lại có dịp hoan hô ủng hộ những lời tuyên bố của Mark Toner, của HRW, RFA, RFI, Liên hiệp Âu Châu v…v… để lên án Nhà Nước về vụ xử “Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ”. Tôi không thấy một tài liệu nào nói về Cù Huy Hà Vũ tốt nghiệp Tiến sĩ Luật ở Đại học nổi tiếng của Pháp, Sorbonne, năm nào, với Luận Án như thế nào, nhưng lại không được phép hành nghề luật sư ở Việt Nam. Có thể nói là Cù Huy Hà Vũ có một đầu óc bất bình thường, nếu không muốn nói là vô trí trong vài vụ ông ta kiện lung tung và những phát biểu bậy.

Tôi không có thì giờ đi vào những thông tin về Cù Huy Hà Vũ có thể nói là đầy đủ nhất trên trang nhà http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B9_Huy_H%C3%A0_V%C5%A9. Tôi chỉ có thể điểm qua vài hành động điển hình của Cù Huy Hà Vũ, một nhân vật mà có người ở hải ngoại, Trần Khải, ca tụng một cách không thể nào lố bịch hơn:

Phiên xử Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ vào ngày 4-4-2011 tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội sẽ có một vị trí độc đáo trong lịch sử Việt Nam. [Nhưng trước tòa chỉ có một bị cáo tên là Cù Huy Hà Vũ trước một bản cáo trạng, không làm gì có “Tiến sĩ luật”]

Cù Huy Hà Vũ là trí thức thực sự [Chúng ta sẽ xem thực sự CHHV trí thức như thế nào]

Bất kỳ ai kết án Cù Huy Hà Vũ, đều là kết án những trật tự của trí thức và pháp lý. [Những hành động ngông cuồng vô trí của CHHV là “trật tự của trí thức và pháp lý”?]

Bất kỳ một xúc phạm nào tới một người như Cù Huy Hà Vũ đều sẽ là xúc phạm tới dân tộc, tới quyền lợi của toàn dân. [CHHV là dân tộc, là quyền lợi của toàn dân, viết ngu như vậy mà cũng viết lên được]

Không trả tự do cho Cù Huy Hà Vũ sẽ có nghĩa là cầm tù cả hồn thiêng sông núi. [Cù Huy Hà Vũ, một người mà trong một số hoạt động đã tự chứng tỏ là thiếu trí tuệ, như sẽ được chứng minh trong một phần sau, mà là Hồn Thiêng Sông Núi?]

Viết những lời khoa trương lố bịch và ngu đần như vậy thì có đáng để cho chúng ta phê bình không. Nhưng đó lại là phản ánh trí tuệ của một số người hành nghề chống Cộng cho thương vụ của mình.

Sau đây tôi có vài nhận xét về một số hành động và phát ngôn thuộc loại “trật tự của trí thức và pháp lý” của Cù Huy Hà Vũ. Nhưng trước hết chúng ta hãy điểm qua vài dư luận về Cù Huy Hà Vũ. Trước hết là của Hội Nhà Văn Việt Nam:


Đọc những bài của Vũ trước hết tôi thấy thật lạ lùng, Vũ vừa là TS luật vừa là Thạc sỹ văn chương, tưởng viết phải rất đúng luật và chặt chẽ, nào ngờ hoàn toàn ngược lại. Trong nhiều bài viết, Vũ đã sử dụng ngôn ngữ chợ búa, phạm luật, và trước những vấn đề đại sự lại rất ấu trĩ.


Việc một Cù Huy Hà Vũ ảo tưởng và ngông cuồng sa lưới pháp luật âu cũng là hệ quả tất yếu. Ở đâu cũng thế thôi, cố tình đi trái làn mãi, ắt sẽ gặp phải tai nạn giao thông. Chỉ có điều, đến giờ phút này, trên nhiều diễn đàn mạng thông tin điện tử, nơi vẫn được coi như một công cụ chính để Vũ thể hiện những ngông cuồng ấy, nhiều học giả, trí thức đã từng rất thiện chí mà chỉ ra những việc làm sai trái của Vũ từ lâu rồi.

Cù Huy Hà Vũ không phải là người bình thường! Bởi người bình thường thì không ai lại cố tình có hàng loạt hành vi vi phạm pháp luật đến như thế.

Sau khi tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (chuyên ngành tiếng Pháp), năm 1979, Vũ nhận công tác tại Ban Thông tin Học viện Quan hệ quốc tế. Trong thời gian 5 năm làm việc ở Học viện, Vũ liên tục được đi Pháp để tiếp tục học tiếng Pháp và học thêm các chuyên ngành quản lý nhà nước, quan hệ quốc tế, luật kinh tế.

Hơn 15 năm được ưu tiên du học nước ngoài, đủ mọi loại bằng cấp nhưng Cù Huy Hà Vũ chẳng cống hiến được gì với nơi đã tạo điều kiện cho Vũ ăn học cũng như cho xã hội. Đã thế, khi về nước vào năm 1999, Vũ không đến cơ quan làm việc, không chấp hành kỷ luật của tổ chức. Đùng một cái, đến năm 2004, Vũ trở mặt quay lại kiện cáo đòi cơ quan phải trả lương.

Có thể nói, lật giở các trang hồ sơ từ Học viện Quan hệ Quốc tế đến UBND phường Điện Biên, thông qua những người anh em họ hàng cũng như hàng xóm, khối phố của Cù Huy Hà Vũ mới thấy con người này quả là "danh bất hư truyền" về thói hung hăng, côn đồ, coi thường gia phong, coi thường luật pháp.

Tính cách thiếu đàng hoàng ấy lại thêm một lần bộc lộ ở ngay chính cái biển to chềnh ềnh trên nóc cổng số nhà 24 đường Điện Biên Phủ. Mặc dù đã nhận bào chữa cho một số vụ kiện dân sự, thậm chí có bằng Tiến sĩ Luật kinh tế của Pháp hẳn hoi, nhưng Cù Huy Hà Vũ chưa từng được pháp luật công nhận hành nghề luật sư tại Việt Nam.

Cụ thể, Đoàn Luật sư Hà Nội đã phải ra thông báo chính thức rằng Cù Huy Hà Vũ không phải là luật sư. Còn về Văn phòng Luật sư Cù Huy Hà Vũ: Văn phòng này được thành lập và đăng ký hoạt động ngày 9/4/2007 do Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà (vợ Vũ) làm Trưởng Văn phòng và tên giao dịch của nó thì lại được đặt trúng tên... Cù Huy Hà Vũ!!!

Đọc những thông tin trên, tôi có cảm tưởng là Nhà Nước đã rất ưu ái và nhân nhượng với Cù Huy Hà Vũ, cho ông ta đi học thành tài, quá nhân nhượng trong những vụ bỏ sở làm, đánh người v…v… của Cù Huy Hà Vũ, có lẽ vì ông ta là con của Cù Huy Cận. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà Cù Huy Hà Vũ cứ làm tới qua những hành động cực kỳ ngông cuồng vô lý, liên hệ với nhiều tổ chức ngoại quốc, một vấn đề rất nhạy cảm đối với Việt Nam, phát biểu bừa bãi với những ngôn từ phi trí thức, nên cuối cùng Nhà Nước không thể tiếp tục nhân nhượng để ông ta tiếp tục làm càn.

Sau đây tôi sẽ đi vào vài hành động ngông cuồng vô trí của Cù Huy Hà Vũ. Thứ nhất là vụ kiện album Chat với Mozart của ca sĩ Mỹ Linh.


Năm 2006, ông kiện album Chat với Mozart của ca sĩ Mỹ Linh và nhạc sĩ Dương Thụ vì cho rằng việc đặt tên và lời tiếng Việt cho các tác phẩm của các tác giả nhạc cổ điển trong album này đã "vi phạm quyền nhân thân" của họ.[12]

Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo Công an Nhân dân, Cù Huy Hà Vũ cho rằng, theo Luật Sở hữu trí tuệ, nhạc có hai loại: nhạc có lời và nhạc không lời. "Nhạc người ta đang không lời, mình cải biên thành có lời là không được", và nhạc của Mozart "là đỉnh cao của âm nhạc. Người ta đang ở “cao”, mình kéo xuống “bình dân” là phá hoại văn hóa." Ông cho rằng cách làm của ông nặng về luật hơn là cảm tính.[12] Ông Vũ cũng nói đùa rằng ông kiện ca sĩ trong nước vi phạm bản quyền nhạc nước ngoài là nhằm sau này "bảo vệ các nhạc sĩ trong nước nếu họ bị vi phạm bản quyền ở nước ngoài".[12]

Đây là một vụ kiện kỳ cục và vô lý nhất hành tinh. Ông Cù Huy Hà Vũ không hiểu gì về luật về bản quyền. Thứ nhất ông Vũ lấy tư cách gì để kiện, kiện cho ai? Đại diện cho Mozart (1756-1791)? Đại diện cho thân nhân của Mozart? Ông Vũ không biết rằng bản quyền không phải là vô thời hạn mà bao giờ cũng có giới hạn về thời gian. Và mỗi quốc gia đều có luật giữ bản quyền cho những tác giả văn học, nghệ thuật v…v… trong nước mình. Luật bản quyền của Mỹ bảo vệ quyền tác giả trong suốt đời sống của tác giả, cộng thêm tối đa là 70 năm cho thân nhân sau khi tác giả qua đời. Sau thời gian này, các tác phẩm văn học, nghệ thuật v..v… đều đi vào lãnh vực công cộng (public domain).


Những người giữ bản quyền có đặc quyền kiểm soát sự sao chép và khai thác những tác phẩm của mình trong một thời gian nhất định, sau đó tác phẩm thuộc lãnh vực công cộng (nghĩa là mọi người đều có quyền sử dụng mà không cần phải xin phép tác giả).

(Copyright owners have the exclusive statutory right to exercise control over copying and other exploitation of the works for a specific period of time, after which the work is said to enter the public domain.)

Ông Vũ có nhắc tới luật bản quyền của Berne Convention, nhưng đây là giới hạn thời gian của bản quyền:


Hội nghị Berne tuyên bố là mọi tác phẩm ngoại trừ nhiếp ảnh và phim ảnh sẽ được giữ bản quyền ít nhất là 50 năm sau khi tác giả chết.

(The Berne Convention states that all works except photographic and cinematographic shall be copyrighted for at least 50 years after the author's death.)

Mozart chết năm 1791, tới năm 2006 là bao nhiêu năm, ông Vũ tính không ra, nhưng tôi biết làm tính trừ nên tính ra được là 215 năm. Vì sự hiểu biết quá kém về luật bản quyền cho nên ông Vũ còn cường điệu:

Chưa xuôi đâu. Sắp tới chắc chắn Cục Bản quyền và Sở VH-TT Hà Nội sẽ phải chính thức trả lời tôi. Có cơ sở pháp lý nào bênh vực được? Tôi tin tưởng việc phạt Mỹ Linh là chắc chắn. Luật Sở hữu trí tuệ ghi rất rõ: Nhạc có hai loại: có lời và không lời. Nhạc người ta đang không lời, mình cải biên thành có lời là không được.

Ấy là chưa nói tới việc nhạc không lời (trong trường hợp này là nhạc giao hưởng - NV) là đỉnh cao của âm nhạc. Người ta đang ở “cao”, mình kéo xuống “bình dân” là phá hoại văn hóa.

Tôi tự hỏi, Cục Bản quyền và sở VH-TT Hà Nội dựa vào cái gì để phạt Mỹ Linh. Từ xưa tới nay không biết là đã có bao nhiêu trường hợp đặt lời ca, nhiều khi chỉ một đoạn, cho những bản nhạc không lời nổi tiếng. Thí dụ, bài “Tristesse” của Chopin với 2 câu đầu: L’ombre s’enfuit, Adieu vos rêves… chẳng qua là đặt lời ca cho đoạn đầu của bản “Etude No. 3 en Mi” của Chopin vì đoạn giữa là đoạn rất khó để tập dương cầm, không thể nào đặt được lời ca. Ông Vũ cũng không biết là ở Việt Nam, những bản nhạc như Le Beau Danube Bleu, Les Flots du Danube, Ave Maria, Hồ-Ly Nai, Sài Lang Nai (Holy Night, Silent Night) v...v... đều có lời ca Việt Nam mà có vấn đề gì đâu. Tại sao? Vì tất cả đều ở trong “Public Domain”. Người ta thấy hay cho nên mới đặt lời chứ đâu có phải là kéo một cái gì đang “cao” (sic) xuống “bình dân” (sic).

Mặt khác, trong nghệ thuật chẳng có gì có thể gọi là đỉnh cao mà tất cả mọi người đều phải công nhận, tất cả chỉ tùy thuộc sở thích cá nhân. Tôi thích và mê vọng cổ thì đối với tôi nhạc giao hưởng của Mozart chỉ như gõ thùng thiếc bể. Một bức tranh của Picasso giá cả triệu đô, nhưng đối với tôi nó như tranh vẽ bùa, kém xa tranh mạc thủy của Tàu giá vài đô. Ông Vũ lấy cái sở thích cá nhân của mình và đi kiện củ khoai vì cho rằng ai cũng phải đồng quan điểm của mình. Đó là ý tưởng của một trí thức dỏm, đầu óc bất bình thường.

Hành động ngông cuồng vô trí thứ hai của Cù Huy Hà Vũ là “nộp đơn tự ứng cử chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin.” Các Bộ Trưởng trong Nội Các là do Tổng Thống hay Thủ Tướng tuyển chọn, có thể phải qua sự chấp thuận của Quốc hội, nếu Hiến Pháp qui định như vậy, để thi hành đường lối của chính phủ hay phải qua một cuộc bầu cử? Từ xưa tới nay các nguyên thủ quốc gia đều thảo luận trước với người mình chọn là Bộ Trưởng để xem họ có cùng một đường lối như mình không chứ đâu có tuyển chọn một tên cha căng chú kiết nào ở ngoài do người dân bầu, mà ông Vũ tự ra ứng cử vào một chức vụ chưa bao giờ có chuyện bầu bán. Ông Vũ còn tự khoe:
Tôi là người được đào tạo bài bản ở Tây, luôn luôn nghĩ tới tính hiệu quả. Không bao giờ nghĩ “không được” mà tôi lại ra ứng cử. Xét về nhiều phương diện, tôi thấy việc tôi ra ứng cử lúc ấy là chín muồi.

Được đào tạo bài bản ở Tây mà sự hiểu biết của ông Vũ lại quá kém cỏi như vậy, học luật mà chẳng biết rõ về luật, thì nói ra chỉ tổ làm cho người ta coi thường cái bài bản của ông ở Tây, và trên thực tế ông Vũ đã hạ thấp những trường đã đào tạo ra một người như ông Vũ. Bởi vì thiếu gì người đã được đào tạo bài bản ở Tây nhưng có ai lại kém hiểu biết và ngông cuồng vô trí như ông Cù Huy Hà Vũ đâu.

Ông Cù Huy Hà Vũ thường phát ngôn bừa bãi một cách thiếu suy nghĩ, có thể vì sự hiểu biết của ông rất giới hạn, mà có thể vì ông ta ngông cưồng, dựa vào vào cơ quan truyền thông ở hải ngoại và sách lược nhập cảng, áp đặt dân chủ và nhân quyền trên đất nước Việt Nam, nên phá rối chính quyền Việt Nam để gây tiếng tăm cá nhân. Ông ta phát biểu:

"Mọi người Việt Nam chỉ có một tổ quốc là Việt Nam, chủ nghĩa xã hội không phải là tổ quốc của người Việt Nam." "Tổ quốc là do tổ tiên tạo lập, còn chủ nghĩa xã hội là một học thuyết chính trị, không phải là quốc gia, và không thể là quốc gia do các vua Hùng lập ra."

Ông Vũ đã nói lên một câu rất ngớ ngẩn và thừa thãi. Có ai cho một chủ nghĩa, bất cứ là chủ nghĩa nào, là tổ quốc bao giờ đâu. Chủ nghĩa Xã Hội là một hệ thống chính trị, kinh tế nhằm phục vụ tổ quốc theo một đường hướng mà những người theo chủ nghĩa này tin rằng đường hướng đó có lợi cho tổ quốc. Ông Vũ đã dựng lên một người rơm, cho Chủ Nghĩa Xã Hội là Tổ Quốc để lên tiếng bài bác, không biết rằng luận điệu của mình ngớ ngẩn đến mức nào. Tôi thật phục sát đất cái “bài bản ở Tây” của ông Vũ.

Báo Quân đội Nhân dân viết:

"Trong nước, trước những khó khăn về tình hình kinh tế - xã hội, thiên tai hoành hành… Vũ thường lợi dụng vào đó để bịa đặt, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước, kích động và vận động nhân dân chống đối chính quyền, xúc phạm danh dự cá nhân các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước... Cù Huy Hà Vũ không ngần ngại kiện bất kỳ ai, có những đơn kiện của Vũ hình như không phải để thắng kiện, mà để nổi danh…

Sau đây tôi muốn nói về vài nhận định của ông Cù Huy Hà Vũ về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua. Ông Vũ phát ngôn:

Không có Đảng cộng sản Việt Nam thì Độc lập dân tộc và Thống nhất đất nước vẫn cứ đến với người Việt Nam như lịch sử đã minh chứng trong suốt hai nghìn năm qua... Chắc chắn, Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt,Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ không phải là Đảng cộng sản Việt Nam hay ủy viên trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khi tiến hành thành công các cuộc chiến tranh đánh đuổi quân xâm lược phong kiến Trung Hoa để giành Độc lập dân tộc hay để thống nhất đất nước.

Tôi nghĩ rằng đầu óc của Cù Huy Hà Vũ quả thật thuộc loại bất bình thường. Tất cả những nhân vật lịch sử của Việt Nam ông Vũ nêu trên đều thuộc những thời đại Đảng Cộng Sản chưa ra đời, vậy tất nhiên họ “không phải là Đảng Cộng Sản” (sic) hay “Ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” (sic). Nhưng thử hỏi, không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì chế độ nô lệ thực dân Pháp có cáo chung không? Trong hơn 80 năm dưới sự đô hộ của Pháp, đã có biết bao cuộc nổi dậy của những người Việt Nam yêu nước chống Pháp, nhưng có ai thành công không? Từ phong trào Cần Vương, Hoàng Hoa Thám v…v… cho đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, những người yêu nước trên đã đạt được những kết quả gì trong công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp? Lê Lợi, Nguyễn Huệ v…v… đâu, sao không thấy, mà chỉ thấy có Hồ Chí Minh, theo gương các tiền nhân anh hùng của Việt Nam là thành công đánh đuổi được thực dân Pháp. Độc Lập dân tộc và Thống Nhất đất nước vẫn cứ đến với người Việt Nam bằng cách nào, phải chờ bao nhiêu lâu nữa, hay nằm hút thuốc phiện há miệng chờ sung, hay chờ cho một Lê Lợi, Nguyễn Huệ khác, không phải là Cộng sản, xuất hiện? Đừng có quên là Pháp trở lại với mục đích tái lập nền đô hộ ở Việt Nam với 80% quân phí do Mỹ yểm trợ. Và cũng đừng quên là Mỹ đã đơn phương dựng lên một chế độ bù nhìn Công Giáo Ngô Đình Diệm ở Việt Nam, không chịu thi hành khoản Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 trong Hiệp Định Geneva. Ông Cù Huy Hà Vũ có vẻ như không hiểu mấy về lịch sử cận đại Việt Nam. Ông không biết rằng cuộc chiến thắng chống ngoại xâm của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã gây nên tiếng vang trên thế giới như thế nào. Ông công nhận những cuộc chiến thắng quân Tàu ngoại xâm của Việt Nam trong những thời trước nhưng lại muốn phủ nhận công chiến thắng quân ngoại xâm Pháp rồi Mỹ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cái chuyện ngày nay chính quyền thoái hóa, xa rời lý tưởng, tham nhũng v…v… là một chuyện, còn chuyện giành được độc lập và thống nhất cho đất nước lại là một chuyện khác. Không thể dựa vào những chuyện của chính quyền ngày nay mà ông không đồng ý để mà phủ nhận những công trên của Đảng Cộng sản, dù trên con đường cứu quốc, Đảng Cộng sản đã có những biện pháp quá khích và tàn nhẫn. Nhưng nay, có một điều ông Vũ cần phải hiểu là, nếu Đảng Cộng sản vẫn như xưa thì không làm gì còn Cù Huy Hà Vũ, hay Lê Quốc Quân, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Văn Lý v…v…

Ông Vũ còn nói:

Khi nói "giải phóng Miền Nam" thì không thể không xác định giải phóng Miền Nam khỏi ai, khỏi cái gì. Chắc chắn không phải "giải phóng Miền Nam" khỏi sự chiếm đóng của Hoa Kỳ vì ngày 30 tháng 4 năm 1975 quân đội cộng sản nhận sự đầu hàng của Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Dương Văn Minh, đó chưa kể Hoa Kỳ đã rút hết quân khỏi Miền Nam từ năm 1973 theo Hiệp định Paris.

Nếu ông Hà Vũ không hiểu “giải phóng miền Nam” là giải phóng khỏi ai và giải phóng khỏi cái gì thì không nên đặt thành vấn đề xác định, vì ông còn thiếu một thắc mắc là “giải phóng miền Nam” để làm gì? Hoa Kỳ chưa bao giờ chiếm đóng miền Nam, chỉ dựng lên miền Nam rồi khi tình hình nguy ngập, đổ nửa triệu quân vào đánh giúp miền Nam để miền Nam khỏi rơi vào tay Cộng sản, và khi thấy không thể thắng được và không còn muốn giúp nữa thì Hoa Kỳ tháo chạy (từ của Nguyễn Tiến Hưng) hay văn vẻ lịch sự hơn là “rút lui trong danh dự”.

Thực tế là trong miền Nam còn có Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và số người dân miền Nam ủng hộ Mặt Trận này, nếu không chẳng bao giờ Cộng sản có thể thành công “giải phóng miền Nam” được. Lẽ dĩ nhiên một số người ở miền Nam, vì hoàn cảnh đất nước nên dù muốn dù không cũng thuộc miền Nam, trong đó có tôi, chẳng muốn mình được giải phóng. Nhưng không muốn là một chuyện mà chuyện thống nhất quốc gia để hợp với lòng dân, ít ra là đa số người dân, lại là một chuyện khó tránh, vì người dân không muốn cảnh Trịnh Nguyễn phân tranh trong lịch sử tái diễn. Hơn nữa, CS đã lãnh đạo người dân kháng chiến chống Pháp, tốn bao xương máu, đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ, ký Hiệp Định Geneva với hi vọng thống nhất đất nước qua giải pháp chính trị Tổng Tuyển Cử năm 1956, nhưng bị Mỹ dựng lên miền Nam, cường quyền thắng công lý, không thi hành điều khoản Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 quy định trong Hiệp Định Geneva. CS có cách nào hơn để đi đến thống nhất đất nước, chẳng lẽ tốn bao xương máu để cho miền Nam trù phú ở trong tay một “chí sĩ” Công giáo nằm trong các tu viện Công giáo suốt trong thời gian toàn dân kháng chiến chống Pháp hay sao? Cho nên câu hỏi của ông Vũ chứng tỏ là ông không biết mấy về cuộc chiến ở Việt Nam. Tôi cũng là người đã tháo chạy trước ngày 30/4/75 vài ngày, nhưng với lương tâm trí thức, chẳng thể nào phủ nhận diễn biến lịch sử nó là như vậy.

Vài lời kết luận

Tôi biết rằng viết ra những ý kiến cá nhân ngược dòng dư luận hải ngoại thể nào cũng lại bị chụp vài cái mũ trên đầu. Nhưng chẳng sao, vì những kẻ buôn nón cối thường không đủ khả năng để thảo luận những vấn đề tôi viết trong bài. Nếu người nào đọc bài này mà cho rằng tôi bênh vực chính quyền Việt Nam hoặc lên án Cù Huy Hà Vũ thì người đó chưa bao giờ hoạt động trong lãnh vực học thuật.

Tôi ở trong quân đội Quốc Gia cho nên năm 1954 đã di cư vào Nam. Tôi đã phục vụ trong quân lực của miền Nam tổng cộng là 8 năm rưỡi, và đã phục vụ trong ngành giáo dục Việt Nam cho đến ngày cuối. Tôi nghĩ mình ở đâu, làm đầy đủ bổn phận công dân ở đấy là đủ, không có gì phải hổ thẹn với lương tâm. Nhưng cuộc chiến Quốc - Cộng đã ngưng 36 năm trước đây rồi, cho nên trong đầu óc tôi không còn Quốc - Cộng mà chỉ còn người Việt Nam. Khi nghiên cứu về lịch sử thì chúng ta phải hiểu rõ là những sự thật lịch sử thì không có tính cách bè phái hay Quốc - Cộng. Và dù những sự thật đó có làm chúng ta đau lòng cách mấy chúng ta cũng phải chấp nhận. Đó là sự lương thiện trí thức của con người.

Viết bài này, tôi chẳng bênh vực chính quyền mà cũng chẳng lên án Cù Huy Hà Vũ mà tôi chỉ nghiên cứu sự việc qua những thông tin trên Internet, tổng hợp, phân tích và đưa ra những ý kiến dựa trên những thông tin và những sự kiện chứ không dựa trên cảm tính cá nhân. Nhưng tôi cần phải nói là tôi chống những sự can thiệp của bên ngoài, bất cứ từ đâu, vào nội bộ Việt Nam. Không phải chỉ vì tôi đã thấy rõ bản chất của chính sách đối ngoại của Mỹ, thực chất của những tổ chức như RFA, HRW, RFI v…v... Mà lý do chính là vì, như trên tôi đã nói, tôi là một công dân Mỹ gốc Việt Nam, mà đã là gốc Việt Nam thì tôi nghĩ, những vấn nạn của Việt Nam hãy để cho người Việt Nam tự giải quyết, không cần đến những sự can thiệp trịch thượng và đạo đức giả vào nội bộ Việt Nam của bất cứ ai hay thế lực nào khác.

Tôi chẳng có ác cảm gì với những cá nhân hay tổ chức chuyên can thiệp vào những chuyện nội bộ Việt Nam, vì đó là mục đích chính trị của họ. Tôi cũng chẳng có ác cảm gì với Cù Huy Hà Vũ và những người ở trong nước tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền, vì đó là quyền tự do của họ. Vấn đề là ở chỗ thẩm quyền của những tổ chức bên ngoài để can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam và hình thức tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền của những người trong nước. Hung hăng chửi bậy trong tòa như Nguyễn Văn Lý thì không phải là tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Thắp nến cầu nguyện với búa, kìm và xà beng ở Tòa Khâm Sứ thì không phải là hình thức tranh đấu hợp pháp. Tuyên ngôn Phục linh không phải là quyền tự do ngôn luận. Những người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ở trong nước mà dựa thế nước ngoài là tranh đấu một cách rất vụng về. Phải nhờ đến người ngoài là phương thức tranh đấu không có hiệu quả, vì chính quyền Việt Nam và đa số người dân Việt Nam, theo truyền thống lịch sử, rất nhạy cảm đối với sự can thiệp của nước ngoài. Nhìn lại lịch sử, chúng ta có bao giờ nghĩ rằng các cường quốc Tây phương thực tâm vì nhân quyền mà ủng hộ sự tranh đấu cho nhân quyền của chúng ta hay không? Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thôi, không tranh đấu cho nhân quyền nữa. Nhưng vấn đề là làm sao tạo được uy tín, được sự ủng hộ của người dân mà không có bóng dáng của bất cứ một cá nhân hay tổ chức nào ở ngoài, chỉ như vậy mới có thể đi đến thành công.

Dựa vào thế lực ngoại quốc để tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam, hoặc liên hệ truyền thông với những tổ chức ở nước ngoài mà mọi người đều biết là không có thiện cảm với chính quyền Việt Nam, tôi cho là những hình thức tranh đấu không có mấy hiệu quả, hơn nữa có thể gây nên những phản tác dụng đối với chính quyền Việt Nam hiện thời, một chính quyền rất nhạy cảm trước mọi hành động có tính cách xen vào nội bộ Việt Nam. Kết quả những công cuộc vận động ngoại quốc để làm áp lực đối với chính quyền Việt Nam sẽ không mang lại kết quả khả quan nào, vì những người Việt yêu nước, bất kể là chính kiến khác nhau như thế nào, đều không thể ủng hộ đường lối nhờ sự can thiệp của người ngoại quốc vào những chuyện bất đồng ý kiến giữa người Việt với nhau.

Nhìn vào quá khứ, chúng ta thấy đã có biết bao nghị quyết nọ kia, kể cả nghị quyết của Liên Hiệp Âu Châu, và cả danh sách CPC, dự luật về nhân quyền cho Việt Nam (sic) của Hạ Viện Mỹ, nhưng kết quả là bao nhiêu, chính quyền VN lùi một bước tiến hai bước và cứ làm theo ý. Tại sao? Vì chính quyền VN thừa biết rằng tất cả chỉ là những tài liệu chính trị chống Việt Nam và cũng thừa biết chiêu bài nhân quyền của các cường quốc Âu Mỹ là đạo đức giả, có tính cách lưỡng chuẩn (double standard), thường để che đậy những mưu đồ chính trị sau bức bình phong nhân quyền. Những cuộc vận động ngoại nhân để làm áp lực đối với chính quyền Việt Nam mà không nghĩ tới những hậu quả nghiêm trọng có thể xâm phạm đến trật tự, an ninh và chủ quyền quốc gia, là những bước đi chính trị vụng về, thiếu trí tuệ, không nghĩ đến truyền thống yêu nước của người Việt Nam. 

Ông Hà Vũ tuyên bố: "Đa đảng là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự dân chủ, toàn vẹn lãnh thổ, giàu mạnh, công bằng và văn minh". Đây là một câu nói vu vơ, ai nói cũng được. Là một trí thức đã được đào tạo bài bản ở Tây, ông Vũ phải chỉ ra một con đường là Việt Nam sẽ đi đến đa đảng và dân chủ như thế nào, đa đảng là bao nhiêu đảng, điều kiện để lập đảng là như thế nào, thế nào mới có thể gọi là một đảng, cá nhân nào, tổ chức nào có quyền lập đảng và trong bao lâu hay ngay lập tức với những luận cứ chặt chẽ về tình trạng xã hội hiện nay, về hình thức dân chủ, về giới hạn của nhân quyền, về giới hạn của tự do ngôn luận, về tinh thần trách nhiệm của người dân trước luật pháp, về trình độ dân trí, có ngoại quốc nhúng tay vào không v…v... Ai cũng biết tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, đa đảng, dân chủ là tốt nhưng vấn đề là tự do tới mức nào, đa đảng như thế nào, và hình thức dân chủ ra sao. Không thể đi tới dân chủ mà không có sửa soạn. Làm sao để người dân thấm nhuần được ý thức một nền dân chủ riêng cho Việt Nam, trách nhiệm người dân trong thể chế dân chủ, bổn phận người dân góp sức cho dân chủ v...v… Tất cả đều phải đi qua một quá trình giáo dục cần thời gian, và tất cả đều phải rõ ràng trong giai đoạn sửa soạn tiến tới dân chủ và đa đảng để tránh những hành động vô cương vô pháp gây hỗn loạn trong xã hội, cảnh lạm dụng tự do ngôn luận, cảnh lạm dụng quyền tự do tôn giáo, hoặc cảnh “lắm thầy thối ma”. Đa đảng và dân chủ, hay lắm! Nhưng không đơn giản như chỉ cần tuyên bố đa đảng là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự dân chủ. Mặt khác, trên thế giới ngày nay tôi đố ông Vũ tìm đâu ra một quốc gia thực sự dân chủ.

Tôi rất đồng cảm với quan niệm của Lê Dọn Bàn trong bài “Dân Chủ Và Đạo KiTô Ở Việt Nam” http://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuL/LeDB00.php:

Dân chủ là thành quả của những vận động lâu dài vốn và phải có sự tham dự của toàn bộ dân chúng trong một quốc gia, và từ cả hai bộ phận cầm quyền và không cầm quyền - dĩ nhiên là không thể nhập cảng, không đến từ bất cứ áp lực nào bên ngoài, và nếu có gây dựng ở trong, càng không thể đến từ những niềm tin tôn giáo. Dân chủ là hoa nở từ trí tuệ - hay thu hẹp hơn – ý thức chính trị xã hội - của dân chúng được phát triển – khi dân chúng thực sự đạt đến một trình độ ý thức trưởng thành, tự mình thấm nhuần được những quan niệm xã hội và chính trị sáng suốt, thuận tình hợp lý với cộng đồng của mình. Thêm nữa, không phải chỉ vài dăm bông hoa, nhưng cả một mùa hoa, và cũng phải hết sức chăm sóc để sẽ nở mãi, qua năm tháng. Trong tình trạng VN, dân chủ phải đi đôi với dân trí, và có lẽ điều này làm chúng ta nhớ kinh nghiệm của Phan Chu Trinh, một người rất sáng suốt và có lý tưởng, cùng can đảm, đã đi trước thời đại của ông.

Cũng như quan niệm của Nguyễn Tâm Bảo trên Đàn Chim Việt: 

Việc DÂN CHỦ HOÁ phải là việc của người dân TRONG NƯỚC, xuất phát từ nhu cầu của chính họ, do chính họ đảm nhận trọng trách, do chính họ tiến hành, chứ không cần bất cứ sự trợ lực nào từ bên ngoài.

Ông Cù Huy Hà Vũ cũng có vài hành động tốt, thí dụ như kiện Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên - Huế về quyết định cấp phép đầu tư xây dựng dự án khách sạn Life Resort trên đồi Vọng Cảnh. Nhưng phần lớn là ông đi kiện lung tung mà không suy nghĩ, thí dụ như vụ kiện album Chat của Mỹ Linh, vụ kiện Vũ Hải Triều mà không đưa ra bất cứ bằng chứng nào có tính cách thuyết phục và không biết phân biệt những blog nào đứng đắn, những blog nào chuyên xuyên tạc và nói xấu Việt Nam. Mặt khác những lời ông phê bình, bằng loại ngôn từ không thích hợp với một trí thức đã được đào tạo bài bản ở Tây, các viên chức nhà nước như Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch quốc hội Nguyễn Phú Trọng, mà thực ra chỉ là những ý kiến cá nhân và trên thực tế là vô giá trị vì không phải ai cũng đồng ý với ông như vậy. [http://hoinhavanvietnam.vn/Details/ly-luan-phe-binh/ve-vu-cu-huy-ha-vu/32/0/2681.star]

Vụ kiện Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng là một điểm son cho Cù Huy Hà Vũ, một hành động can đảm và đúng vì đã có nhiều nghiên cứu về sự nguy hại trên môi trường của chất thải bùn đỏ trong quá trình tinh luyện Bauxite, và vùng Tây Nguyên là vùng chiến lược quân sự liên hệ đến sự bảo vệ lãnh thổ. Nhưng mặt khác, Việt Nam có mỏ bauxite lớn thứ ba trên thế giới, và đó là một nguồn tài nguyên khổng lồ của nước nhà vì quặng bauxite sẽ đưa đến sự chế tạo ra nhôm (aluminum), một kim loại sử dụng rất nhiều trong nhiều ngành kỹ nghệ. Ngoài Trung Quốc, cả Mỹ, Nga và Úc cũng muốn thiết lập các nhà máy tinh luyện Bauxite ở Việt Nam. Nếu không khai thác thì cả cái khối tài nguyên đó trở thành vô dụng. Vậy vấn đề không phải là không khai thác Bauxite mà là kỹ thuật khai thác sạch, và ai phụ trách khai thác. Việt Nam đã vội vã cho Trung Quốc khai thác, trong khi có thể gửi người đi học, nghiên cứu kỹ vấn đề để người Việt Nam tự khai thác và đủ kinh nghiệm để kiểm soát việc xử lý chất bùn đỏ. Và nếu Việt Nam không có những quy định kiểm soát rõ ràng trong hợp đồng khai thác, và không có khả năng kiểm soát phương pháp khai thác, biện pháp xử lý an toàn bùn đỏ, thì rất có thể sẽ gây ra nhiều hậu quả tác hại không thể lường được.

Nếu ông Cù Huy Hà Vũ chỉ có những hành động như kiện UBND Tỉnh Thừa Thiên – Huế hay kiện Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng về vụ Bauxite thì tôi chắc ai cũng ủng hộ vì đó là những hành động xây dựng, bảo vệ văn hóa, môi trường của Việt Nam. Nhưng ông ta lại đi kiện lung tung và lang bang vào những chuyện không rõ ràng như đòi dân chủ, đa nguyên đa đảng mà không đưa ra một mô thức nào cho dân chủ, đa nguyên đa đảng thích hợp với hoàn cảnh chính trị Việt Nam ngày nay, và mặt khác những chuyện làm lung tung của ông chứng tỏ trình độ hiểu biết của ông còn thiếu sót nhiều cho nên đã có phản tác dụng, làm loãng đi giá trị của những việc làm đáng khen của ông. Thật là đáng tiếc.

Trần Chung Ngọc
Grayslake, Illinois
Ngày 26 tháng Tư 2011

Ngày tôi rời Saigon cách đây 36 năm.

Để đọc nguyên văn entry, các bạn theo link sau nhé:

1 nhận xét: