Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2014

BIỂU TÌNH Ở HONG KONG SẼ BỊ GIẢI TÁN

Khoai@


Biểu tình Hong Kong sẽ bị giải tán là một kết cục được báo trước. 

Mục đích của nó, dù chúng ta có cho là "cao đẹp" đi chăng nữa, thì nó sẽ bị dập tắt bởi nhà cầm quyền Bắc Kinh. Đơn giản vì nó đã và đang đe dọa đến "lợi ích" của Bắc Kinh. Khi lợi ích của nhà cầm quyền và của người dân bị đe dọa, tất yếu dẫn đến hành động.

Ông Ấn Hồng Tiêu, Giáo sư Đại học Bắc Kinh, cho rằng việc phong trào “Chiếm Trung tâm” khiến người dân Hong Kong ngày càng bất mãn cho thấy phương thức hoạt động phi pháp "công dân kháng lệnh" đã gây thiệt hại cho giới doanh nghiệp, nền kinh tế, dân sinh của Hong Kong, đồng thời ảnh hưởng tới cuộc sống thường ngày của người dân. Ông nói thêm rằng phong trào chính trị nên lấy việc không gây hại đến đời sống xã hội làm giới hạn, nếu không sẽ tạo ra sự phản kháng từ phía người dân.

Thực tế là cuộc biểu tình này, lợi ích chưa thấy đâu, nhưng hậu quả là nhãn tiền. Các hoạt động giao thông trật tự cho đến sản xuất bị đình trệ, kinh tế suy giảm và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân. Những người không có cùng chính kiến với các nhà biểu tình bị xâm hại lợi ích và con số này ngày càng đông lên. Thực tế ấy dẫn đến hệ quả là chính những người chống biểu tình lần lượt đứng về phe chính quyền. Khi tương quan lực lượng thay đổi và quan trọng là được nhiều người ủng hộ, chính quyền sẽ ra tay.

Lý do khác, để cuộc biểu tình kéo dài thì hệ lụy của nó không còn là vấn đề trật tự xã hội mà là sự tồn vong của chế độ, tức an ninh quốc gia. Thực tế đã có những cáo buộc cho rằng Mỹ và phương Tây đứng đằng sau những cuộc biểu tình này (?). Lý do này thôi thúc Bắc Kinh phải tìm cách ngăn chặn.

Muốn biết cuộc biểu tình ảnh hưởng như thế nào xin mời đọc tại đây:
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/repercussions-of-hk-protests-vh-10092014121631.html

Cuối cùng lý do dẫn tới cuộc biểu tình sẽ bị trấn áp bằng vũ lực hoặc sức mạnh mềm nào đó xuất phát từ chính những nhà lãnh đạo và người tham gia biểu tình. Hoàng Chí Phong dù có tài ba đến mấy nhưng do giới hạn về tuổi tác vẫn có những hạn chế nhất định. Đó là sự nôn nóng, đó là sự cứng rắn thái quá, và đó là sự thiếu khôn ngoan trong hành xử với chính quyền. Sự cuồng nhiệt/hung hăng của tuổi trẻ và khao khát không giới hạn (vô giới hạn) của họ có lẽ sẽ là mũi dao bị bẻ ngược. Từ một cuộc biểu tình được cho là "lịch sự nhất hành tinh", nó dần bị tha hóa thành một cuộc biểu tình tầm thường. Đã có những hành động đập phá, quá khích tạo lý do cho những vụ bắt bớ, làm xấu đi hình ảnh Hong Kong và cùng lúc làm mất đi thiện cảm của những người trung lập. Trong khi đó, sự cổ súy vô tội vạ của những người ủng hộ từ trong và ngoài Hong Kong đã làm cho họ không biết mình là ai và đang ở đâu. Vì điều này, họ dần mất kiểm soát hành vi của chính mình, vì thế sai lầm hoặc mắc mưu đối thủ là điều không tránh khỏi.

Báo “Văn Hối” (Hong Kong) số ra ngày 14/10, hoạt động chiếm giữ phi pháp các tuyến đường chính diễn ra trong suốt hơn hai tuần qua đang gây ra hỗn loạn và thiệt hại vô cùng lớn, khiến người dân thành phố phản ứng kịch liệt. Theo kết quả cuộc điều tra mới nhất, mức độ ủng hộ của người dân đối với các nhóm dân chủ đang sụt giảm mạnh. Người dân nơi đây bắt đầu cảm thấy không hài lòng với phong trào này, họ lo ngại các hoạt động biểu tình sẽ đánh sập kinh tế Hong Kong. Một tuần trước, số lượng người tham gia biểu tình đã giảm đi rõ rệt. “Ván bài” giữa học sinh và chính quyền sắp đi đến hồi kết. Học sinh, sinh viên không đạt được bất kỳ mục đích nào, ngược lại họ đã gây ra thiệt hại hàng tỷ đô la Hong Kong cho ngành bán lẻ và du lịch của thành phố. 

Ông Bobby Yim, giám đốc bảo hiểm đã nghỉ hưu, phân trần: “Những đứa trẻ chiếm giữ đường phố đang hủy hoại toàn xã hội. Tôi cho rằng kinh tế và đời sống của người dân còn quan trọng hơn những yêu cầu của chúng”. Tuy nhiên, Liên đoàn Sinh viên lại muốn đấu tranh đường phố, không ngừng kêu gọi những người ủng hộ bám trụ các tuyến đường. Rốt cuộc là các nguyên lão ủng hộ dân chủ bắt đầu công kích, thậm chí xuất hiện hiện tượng một số nguyên lão kêu gọi giải tán biểu tình, phản đối Liên đoàn Sinh viên.

Những phân tích trên mạng đều cho rằng số phận thất bại của phong trào "Chiếm Trung tâm" đã sớm được xác định. Bản chất là phong trào "Chiếm Trung tâm" sẽ tự đánh bại mình. Bởi vì, một khi kinh tế Hong Kong bị ảnh hưởng, thì tội đồ chính là các sinh viên biểu tình. 

Từ những lý do nêu trên, cuộc biểu tình (phong trào chiếm trung tâm) ở Hong Kong sẽ thất bại.

Và đây là bước đi được coi là bước thứ hai của chính quyền, nhằm giải tán cuộc biểu tình:

Ngày 18/10: Cảnh sát Hồng Kông đụng độ dữ dội với người biểu tình

Xô xát dữ dội giữa người biểu tình và cảnh sát Hồng Kông đã xảy ra, khiến it nhất 240 người bị thương và nhiều người biểu tình bị bắt.

Trong thông báo công bố vào rạng sáng 18.10 (giờ địa phương), cảnh sát Hồng Kông cho biết đã bắt giữ 26 người trong các cuộc đụng độ với đám đông biểu tình lên đến khoảng 9.000 người vào khoảng 3 giờ sáng và đã có 15 cảnh sát bị thương.

Cảnh sát đã dùng hơi cay và dùi cui để tấn công người biểu tình tại một con đường lớn ở quận Mong Kok, nhưng buộc phải rút lui một phần khi trời sáng, theo AFP ngày 18.10.


Cảnh sát dùng bình xịt hơi cay để trấn áp người biểu tình tại khu mua sắm Mongkok ở Hồng Kông vào ngày 18.10. Trong số những người bị xịt hơi cay có cả phụ nữ.

Một cảnh sát chống bạo động Hồng Kông quát tháo người biểu tình khi bạo động bùng phát giữa 2 bên
Một người biểu tình thách thức lực lượng cảnh sát tại Mong Kok

Đây là tối thứ 3 liên tiếp xảy ra bạo động tại Hồng Kông sau 2 tuần khá yên ả và diễn biến mới này có nguy cơ nhấn chìm kế hoạch tổ chức đàm phán mới đây giữa các thủ lĩnh sinh viên biểu tình và chính quyền đặc khu, theo AFP.

Vào sáng 18.10, cảnh sát Hồng Kông đã giải tán được phần lớn khu vực cắm trại của người biểu tình ở Mong Kok, nơi được cho là có quy mô lớn thứ 2 sau khu vực biểu tình chính đối diện trụ sở nhà cầm quyền Hồng Kông ở trung tâm đặc khu này.

Một viên cảnh sát chống bạo động Hồng Kông quát tháo người biểu tình khi đang tìm cách dỡ bỏ các rào chắn của người biểu tình tại quận Mong Kok vào ngày 18.10
Cảnh sát lập hàng rào sau khi đã xảy ra xô xát giữa cảnh sát và người biểu tình ở Mong Kok

Tại Mong Kok, đã từng xảy ra ẩu đả giữa người biểu tình và những người phản đối biểu tình bịt mặt hồi đầu tháng 10, theo AFP.

Trong ngày 17.10, người biểu tình đã xoay xở để trụ lại tại một phía của một con đường nhiều làn xe ở khu Mongkok.

Cảnh sát sau đó đã chật vật để duy trì trật tự vì số lượng người biểu tình bắt đầu tăng mạnh vào buổi tối và bạo lực đã bùng phát khi một vài người biểu tình tìm cách chen qua hàng rào cảnh sát, phóng viên AFP có mặt tại hiện trường tường thuật lại.

ĐÂY LÀ NHÂN QUYỀN MỸ - TỰ DO VÔ GIA CƯ

Khoai@

Một quốc gia dù được ngợi ca đến mấy vẫn luôn chứa trong nó những nỗi đau của nhân loại. Không thể và chưa thể có được một quốc gia hoàn hảo là một thực tế. 


Khác với những gì đám rận zân chủ ngợi ca, bộ mặt thật của nước Mỹ, mặc dù là miền đất hứa của nhiều người vẫn lộ rõ những yếu điểm chết người. 


Dưới đây là những sự thật về nhân quyền tại Hoa Kỳ.


Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "10 Facts About Being Homeless in the USA" của tác giả Bill Quigley, một giảng viên luật học, trình bày những thống kê căn bản về người vô gia cư ở Hoa Kỳ.

10 Sự Thật Về Người Vô Gia Cư ở Hoa Kỳ

Ba câu chuyện có thật

Renee Delisle là một trong số 3.500 người vô gia cư ở Santa Cruz khi cô ấy biết mình mang bầu. 

Tờ The Santa Cruz Sentinel đưa tin cô bị đuổi khỏi nhà tạm cư vì họ không có chỗ cho cô. Trong khi những người vô gia cư khác ngủ trong xe hơi hoặc dưới cống ngầm thì Rene sống trong một hầm thang máy bỏ hoang cho tới khi cô vỡ ối. 

Jerome Murdough, 56 tuổi, một cựu lính thủy vô gia cư, bị bắt vì tội xâm nhập ở New York do người ta tìm thấy ông ta ngủ ở chân cầu thang nhà công cộng vào một đêm lạnh giá. Tờ The New York Times đưa tin một tuần sau, Jerom chết bởi suy giảm thân nhiệt trong một phòng giam được sưởi ấm tới hơn 100 độ. 

Paula Corb và hai con gái mất nhà và phải sống trong một chiếc xe tải mini suốt bốn năm. Họ phơi đồ trong chái nhà thờ, sử dụng nhà tắm ở trạm xăng, và học dưới đèn đường, theo tờ America Tonight.

Sự thật thứ nhất. Hơn nửa triệu người vô gia cư

Bất cứ đêm nào, có hơn 600.000 người vô gia cư ở Hoa Kỳ theo Bộ Nhà Ở và Phát Triển Đô Thị (HUD). Hầu hết mọi người qua đêm tại các nhà tạm cho người vô gia cư hoặc ở một số dạng nơi trú ngụ chuyển tiếp ngắn hạn. Khoảng hơn một phần ba sống trong xe hơi, dưới gầm cầu hay theo cách không nhà khác. 

Sự thật thứ hai. Một phần tư số người vô gia cư là trẻ em 

Các báo cáo của HUD vào một đêm bất kỳ có hơn 138,000 người vô gia cư ở Hoa Kỳ là trẻ em dưới 18 tuổi. Hàng ngàn trong số đó không có người bảo trợ theo thống kê của HUD. Một chương trình liên bang khác, Không Trẻ Em Bị Bỏ Rơi, định nghĩa trẻ em vô gia cư rộng hơn và bao gồm không chỉ những trẻ em sống trong nhà tạm hay nhà chuyển tiếp mà cả những trẻ em phải chia sẻ nơi trú ngụ với các cá nhân khác do kinh tế khó khắn, sống trong xe hơi, công viên, trạm xe bus hay tàu điện, hay chờ nơi nhận chăm sóc. Theo định nghĩa này, Trung Tâm Quốc Gia về Giáo Dục Vô Gia Cư báo cáo vào tháng 9 năm 2014 rằng các trường địa phương ở quận cho biết có hơn một triệu trẻ em vô gia cư trong các trường công.

Sự thật thứ ba. Hàng chục ngàn cựu chiến binh vô gia cư 

Hơn 57,000 cựu chiến binh vô gia cư hàng đêm. Sáu mươi phần trăm số họ ở trong nhà tạm, phần còn lại không nhà. Gần 5000 trong số đó là nữ. 

Sự thật thứ tư. Bạo lực gia đình là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng vô gia cư ở nữ giới

Hơn 90% phụ nữ vô gia cư là nạn nhân của nhiều dạng lạm dụng thân thể hoặc lạm dụng tình dục và thoát khỏi sự lạm dụng là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng vô gia cư của họ.

Sự thật thứ năm. Nhiều người vô gia cư vì họ không thể trả tiền thuê nhà 

Thiếu khả năng đáp ứng nhà ở giá phải chăng là nguyên nhân căn bản của tình trạng vô gia cư theo Trung Tâm Luật Quốc Gia về Vô Gia Cư và Nghèo Khổ. HUD cho thấy ngân sách bị cắt giảm hơn 50% trong thập kỷ qua đã gây tổn thất 10,000 đơn vị thu nhập thấp được trợ cấp chỗ ở mỗi và hàng năm. 

Sự thật thứ sáu. Có ít nơi cho người nghèo thuê hơn trước đây 

Một phần tám nguồn cung quốc gia cho chỗ ở thu nhập thấp đã biến mất vĩnh viễn kể từ năm 2001. Hoa Kỳ cần ít nhất thêm 7 triệu căn hộ nữa cho các hộ gia đình thu nhập thập và kết quả là hàng triệu gia đình chi hơn nửa thu nhập hàng tháng của họ cho tiền thuê nhà. 

Sự thật thứ bẩy. Trong vài năm qua hàng triệu người đã mất nhà 

Hơn năm triệu căn nhà đã bị tịch biên kể từ năm 2008, một trong mười căn nhà là vật cầm cố. Điều này là nguyên nhân khiến càng nhiều người hơn tìm kiếm căn hộ cho thuê có giá vừa phải. 

Sự thật thứ tám. Chính quyền không giúp được nhiều như bạn nghĩ 


Sự thật thứ chín. Một phần năm người vô gia cư phải chịu đựng các tổn thương tinh thần mà không được chăm sóc

Trong khi có khoảng 6% dân số phải chịu đựng các tổn thương tinh thần, có từ 20 đến 25% người vô gia cư phải chịu đựng các tổn thương tinh thầntheo các nghiên cứu của chính phủ. Một nửa số đó tự chăm sóc và dẫn đến rủi ro nghiện thuốc và thiếu sức khỏe. Một nghiên cứu của đại học Pennsylvania theo dõi gần 5000 người vô gia cư trong hai năm đã phát hiện ra rằng đầu tư cho hỗ trợ sức khỏe toàn diện và chăm sóc tổn thương cơ thể cũng như tinh thần tốn kém ít hơn tống giam, cung cấp nơi ở tạm, và dịch vụ y tế cho những người vô gia cư không được chăm sóc. 

Sự thật thứ mười. Các thành phố đang ngày càng coi vô gia cư là tội phạm 

Một khảo sát năm 2014 tại 187 thành phố do Trung Tâm Luật Quốc Gia Về Vô Gia Cư Và Nghèo Khổ đã cho thấy: 24% số thành phố coi ăn xin ở nơi công cộng là tội phạm; 33% coi đứng quanh hay lảng vảng tại bất cứ đâu trong thành phố là bất hợp pháp; 18% coi việc ngủ ở bất cứ nơi công cộng nào cũng là tội phạm; 43% coi việc ngủ trong xe hơi là bất hợp pháp; và 53% coi việc ngồi hay nằm tại một nơi công cộng cụ thể là bất hợp pháp. Số lượng thành phố coi vô gia cư là tội phạm đang tăng dần lên. 


CHIẾC GIÀY PHẢI BÊN TRONG CÁNH CỬA

Một câu chuyện từ diễn biến sự việc tới cách xử lý như trong câu chuyện cổ tích. Không biết, khi rơi vào hoàn cảnh thực tế, có ai đủ mềm dẻo để giải quyết nếu tình cảm bị chà đạp? Liệu cái ôm có phải là sự thứ tha quá dễ để rồi mọi thứ lại có thể lặp lại?

Chiếc giày phải bên trong cánh cửa 

18 giờ. Chị gọi điện thoại đến Công ty của chồng, chú bảo vệ nói rằng: "Sếp vừa đi ăn tối ở nhà hàng". Linh tính cho chị biết đó là... nhà nàng chứ không phải nhà hàng.

20 giờ. Sau khi cho các con ăn xong, chị phi xe máy đến nhà nàng. Ô tô của sếp đang đỗ ở trong sân. Linh tính đã không đánh lừa chị. Có cái gì đó rất nóng, trào lên nơi cuống họng nhưng chị đã kịp nuốt khan nó vào.

Không ấn chuông, không đập cửa, cũng không gào thét, chị cởi chiếc giày bên chân phải của mình, treo vào phía trong cánh cửa sắt rồi phóng xe về nhà, giúp các con ôn bài.

Gần 23 giờ đêm, sếp mới chỉnh trang lại y phục, chải lại mái tóc bị vò rối bù và ra về. Nàng ra mở cửa cho sếp trong bộ váy áo ngủ mỏng tang đầy quyến rũ, và giật mình khi nhìn thấy một chiếc giày treo trong khung cửa sắt. “Sao lại có một chiếc giày ở đây? Một chiếc giày chân phải rất đẹp”. “Thôi, em vào ngủ đi. Cho dù đẹp nhưng một chiếc giày thì cũng chẳng làm được việc gì”.

Trên đường về nhà, sếp cứ nghĩ vẩn vơ về chiếc giày đó, nó là của ai? Và vì sao nó được treo ở đó?

Sếp đánh ô tô vào gara, mở cổng rất khẽ. Có một chiếc giày chân trái của phụ nữ đặt ngay ngắn trên bậc cửa. Sếp đứng như trời trồng trước chiếc giày đó chừng 2 phút. Sau đó sếp vào phòng ngủ riêng, vì sếp không muốn nghe vợ cằn nhằn, khóc lóc.

Nhưng sếp trằn trọc mãi không sao ngủ được. Sẽ có giông bão trong căn nhà này. Sẽ là nước mắt, tiếng la hét và một lá đơn ly hôn. Rồi hai đứa nhỏ sẽ chán đời, đi bụi và hư hỏng... Đó là tấn bi kịch đáng sợ nhất.

Nhưng sáng hôm sau, mọi việc vẫn diễn ra bình thường. Bát phở gầu bò thơm ngào ngạt vẫn được để ngay ngắn trên bàn cùng với mấy dòng chữ của vợ: “Em đưa các con đến trường. Anh ăn sáng rồi đi làm. Hôm nay trời u ám nên anh phải mặc bộ vét màu sáng, thắt cà vạt màu sáng. Em đã là kỹ, treo trong tủ”.

Sếp gọi điện thoại cho nàng: “Chiếc giày chân phải kia là của vợ anh. Đừng vứt đi nhé”. Giọng nàng đầu dây bên kia nghe hơi hoảng hốt: “Trời ạ! Anh muốn làm sao thì làm chứ nếu chị ấy đến nhà em làm ầm lên thì em không sống nổi đâu. Chiều anh tạt qua lấy chiếc giày về”.

Nhiều ngày trôi qua mà giông bão không nổi lên, thái độ của vợ sếp vẫn bình thản, song một chiếc giày trên bậc cửa cứ nhắc sếp về sự lẻ loi và tội lỗi của một người. Rồi một buổi chiều, sếp lấy hết can đảm, lôi chiếc giày bên phải trong cốp xe ra, đặt ngay ngắn bên chiếc giày chân trái của vợ.

Chị đi làm về, đứng sững trước bậc cửa mấy giây rồi chạy vào, ôm ghì lấy chồng mà thì thầm: “Ôi! Chiếc giày chân phải của em!” Sếp cũng thì thầm bên tai vợ: “Anh xin lỗi em - nghìn lần xin lỗi!”.

Nguồn ở đây

CHÍNH PHỦ MỸ KHÔNG CẦN CHÚNG MÀY PHẢI DẠY KHÔN!

Mẹ Đốp


"Hoa Kỳ đã mắc sai lầm khi nới lỏng lệnh cấm vận buôn bán và chuyển giao vũ khí sát thương cho Việt Nam", Nguyễn Quang Lập đã dẫn những dòng viết vô lý ấy được cho là John Sifton /HRW (Giám đốc Vận động Châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền). Sở dĩ tôi cho đó là vô lý là bởi xưa nay chỉ nghe đến các sai lầm của nước Mỹ xung quanh cuộc chiến tại Đông Dương trong đó có Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975; là chuyện họ bị sa lầy cay đắng và đang lãnh nhận hậu quả từ sự lớn mạnh của những đứa con cưng của họ như An qaeda, IS.... Vả lại, người Mỹ lâu nay vốn có tiếng là khôn ngoan trong lĩnh vực đối ngoại với những nhà ngoại giao trứ danh như Condoleezza "Condi" Rice,Hillary Rodham Clinton, John Kerry... 

Lí do để John Sifton /HRW kêu gọi một chiến dịch "Sửa chữa sai lầm của Hoa Kỳ về nhân quyền với Việt Nam" được nói rõ như sau: "Tháng này chính quyền Hoa Kỳ đã mắc sai lầm khi nới lỏng lệnh cấm vận buôn bán và chuyển giao vũ khí sát thương cho Việt Nam – một quốc gia phi dân chủ, độc đảng với bảng thành tích nhân quyền tệ hại. Bước đi này của Hoa Kỳ, được công bố vào ngày mồng 2 tháng Mười trong chuyến thăm Washington của Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Bình Minh, đã gây tổn hại cho các nhà hoạt động can đảm ở Việt Nam và phí phạm một đòn bẩy quan trọng đáng lẽ có thể sử dụng để thúc đẩy thêm nhiều cải cách hơn nữa". 

Để minh chứng cho việc Chính phủ Mỹ đã sai lầm khi nới lỏng lệnh cấm vận buôn bán và chuyển giao vũ khí sát thương cho Việt Nam, tác giả này đã cho rằng những tiến bộ về mặt dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam thời gian qua - được xem là lí do thúc đẩy Chính phủ Mỹ đưa ra quyết định nói trên rất nhỏ lẻ và có phần mang tính hình thức. Bằng chứng được đưa ra là "con số các tù nhân chính trị bị giam giữ đã gia tăng trong những năm gần đây" và cũng chỉ có một vài tù nhân được phóng thích (tiêu biểu trường hợp của Cù Huy Hà Vũ); thậm chí vị Giám đốc Vận động Châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền còn "liều lĩnh" cho rằng tại Việt Nam có một xu hướng đang gia tăng đáng báo động là "việc sử dụng côn đồ để tấn công và đe dọa những người phê phán chính quyền"; "Với những vụ phóng thích mới đây nhất, người ta chỉ có thể nói một cách tích cực nhất là chính phủ Việt Nam đang vận hành một cánh cửa quay, những tù nhân cũ đi ra bên này thì những tù nhân mới lại vào bên kia". 

Tuy nhiên, thực sự đang có một sự mâu thuẫn trong chính cách nói của John Sifton. Nếu như phần trên của bài viết, John Sifton mạnh dạn đưa ra những cái lí do mà chúng ta vẫn quen gọi là "chắc như đinh đóng cột" thì ở đoạn sau đó tác giả này tiếp tục đưa ra hoài nghi khó hiểu. Theo đó, ông này không thể hiểu nổi lí do tại sao mà trong bối cảnh diễn ra các hoạt động đàm phán giữa 02 Chính phủ liên quan đến việc nới lỏng lệnh cấm vận buôn bán và chuyển giao vũ khí sát thương cho Việt Nam của Hoa Kỳ mà Chính phủ Việt Nam lại liên tiếp đưa ra xét xử "ba nhà hoạt động (Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh) tội cản trở giao thông trong một lần biểu tình và kết án họ tới ba năm tù giam?"; "Vì sao chính quyền Việt Nam lại bắt giữ blogger nổi tiếng Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm) vào tháng Năm? Vì sao Việt Nam xử blogger Phạm Viết Đào trong tháng Ba? Và vì sao chính quyền đã kết án gần mười người Thượng vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm nay với tội danh bị cho là chống nhà nước?". 

Phải chăng Chính phủ Việt Nam không hướng đến những điều mà đã cố làm trong những lần gặp gỡ giữa hai bên khi liên tiếp có những động thái mang tính thách thức đó? Hay đã đến lúc thực lực và tầm ảnh hưởng của nước Mỹ không còn đáng "kiêng nể" như trước? Tuy nhiên, có một thực tế đã được công nhận là Chính phủ Mỹ đã thông qua nới lỏng lệnh cấm vận buôn bán và chuyển giao vũ khí sát thương cho Việt Nam và điều đó cho thấy nước Mỹ không nhìn nhận động thái đó của Việt Nam là "thái độ thách thức" mà không chừng còn xem đó là một thiện chí. Cho nên, thay vì cho rằng nước Mỹ, Nhà nước Mỹ quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam thì nên tìm kiếm một lí do khác cho có vẻ thuyết phục hơn bởi nếu đã có một sự quan tâm "đặc biệt" thì với bản tính "trả đũa" quen thuộc nước Mỹ sẽ không ngần ngại từ chối lời đề nghị đến từ Việt Nam. Và như thế, rõ ràng nước Mỹ và Việt Nam đang có một điểm chung mà giới "rận chủ" trong nước không thể nào biết được.

Chính phủ không quan tâm nhiều đến nhân quyền, đó là một sự thật và mong rằng giới "dân chủ" sẽ không quá ngộ nhận về những thứ mà suy cho cùng nó cũng chỉ là chiêu bài giả hiệu; việc nước Mỹ đến với Việt Nam nên chăng được xem xét ở một khía cạnh thuần túy hơn./.

Nguồn: Mõ Làng

THẾ NÀY MỚI LÀ VĂN!

Khoai@


Ngoài năng khiếu, để viết được bài văn này, mình dám chắc cô bé phải rất yêu thầy cô của mình. Ngôn ngữ mà không có cảm xúc, thiếu đi sự rung động từ con tim cũng sẽ trở nên bất lực. Bài viết quá hay.

Phục sát đất học sinh viết bài văn này - Đúng là đạt điểm 10 cũng xứng đáng!

Đây là bài văn của em Vũ Phương Thảo, lớp 10A1, THPT Định Hóa, Thái Nguyên. Em vốn là học sinh lớp chuyên Toán, thuộc ban tự nhiên nhưng học rất tốt Ngữ văn. Em vừa giải A Cây bút tuổi hồng 2013-2014 của báo Thiếu niên Tiền phong. Bài văn này được đánh giá rất cao, khiến nhiều giáo viên phải nể phục. 

Mình đọc đến đâu nghẹn đến đó. Thật ko nghĩ một học sinh lớp 10 có thể viết đc bài văn xúc động, giàu cảm xúc đến thế.

Đây là bài văn của em Phương Thảo:

"Những ngày mùa hạ rả rích, khi ôm sách và lắng nghe vài giai điệu phát ra từ cái radio cũ mèm, tự dưng tôi nghe thấy mấy lời da diết vang lên: “Người thầy... vẫn lặng lẽ đi về sớm trưa/Từng ngày, giọt mồ hôi rơi nhòe trang giấy…”. 

Tiếng Cẩm Ly tha thiết, chiều mùa hạ như đang rơi xuống, vỡ tan và xoáy vào lòng những kí ức tươi đẹp. Đột nhiên, có cảm giác như đang lạc vào một thế giới nào đó, một thế giới không phải của mình, thế giới của quá khứ. 

Và tự nhiên, tôi nghĩ, dường như mình đang được xem lại cuộc đời bốn năm trước, qua vài cảnh quay được trích ra từ cái máy quay có lẽ là đời từ những năm 1980. 

Máy quay có lẽ đã cũ lắm rồi, cảnh được cảnh mất, nhưng cũng đủ để tôi thấy tôi - mười một tuổi - đứng trong sân trường cấp II lộng gió, và bóng một người thấp bé lặng lẽ đạp chiếc xe khung, đi trong nắng vàng. Bất chợt, người ấy quay lại. Ánh mắt hiền từ được máy quay ghi lại rõ ràng không sai. Tim tự dưng thấy hẫng một nhịp. 

Kia rồi! Thầy tôi... 

Người đàn ông đi trong nắng vàng hôm ấy là người tôi kính trọng nhất trên đời. Có lẽ biết thế nên mọi cảnh quay về người ấy đều rõ nét và chân thực đến kì lạ. Tôi nhìn rõ cái bóng liêu xiêu, đổ dài trên con đường dài dằng dặc, cùng với cây thước kẻ nửa mét kẹp trong chiếc cặp da sờn cũ, hộp phấn bằng thép chỉ chực rơi ra, cùng mái tóc đã bạc lắm rồi. Bỗng nhiên, tôi thấy nước mắt đang dâng lên, đầy tràn hai khóe mắt. 

Nhiều người vẫn miêu tả: Các thầy cao to, vạm vỡ, có đôi mắt sáng quắc uy nghiêm. Nhưng không! Thầy tôi thấp lắm, nếu so với chuẩn 1,8 m, chỉ chừng 1,6 m, tóc bạc trắng và lúc nào cũng lọc cọc đi trên chiếc xe khung han rỉ. Mắt thầy sáng, nhưng sáng bởi ánh sáng dịu hiền, ấm áp khiến chúng tôi rất an tâm. Mọi thứ thuộc về thầy cũ kĩ đến mức hoài cổ. Chúng tôi, thời những năm lớp 6, đã từng trêu thầy nhiều lần vì điều ấy. Tôi vẫn nhớ thầy chỉ cười hiền và bảo, thầy già rồi, có cần gì hiện đại. 

Máy quay chuyển cảnh. Từng hình ảnh nhảy nhót. Cứ như bị lỗi, những hình ảnh ấy cứ nháy đi nháy lại, nhưng lại rõ đến từng chi tiết. 

Mùa đông lạnh thê lương. Khi mà gió vuốt những ngón tay trên mái nhà, tôi nhìn thấy thầy đạp xe đến trường. Những vòng quay xe đạp cứ thế quay đều, quay đều. Pê đan cũ lắm rồi, xích kêu lạch cạch tựa như đang đòi nghỉ ngơi. Thầy vẫn cần mẫn đạp xe, cần mẫn xách chiếc cặp sờn cũ đến lớp. Thảng qua, tôi thấy thầy khẽ run. Không chỉ mùa đông ấy, mà còn nhiều mùa đông sau này nữa. 

Tôi vẫn luôn nhìn thấy hình ảnh đó. Luôn nhớ mình đứng trên tầng 2, vẫy tay “Em chào thầy” mà láo xược chế thành “Em thầy!”, và thầy, trên chiếc xe đạp cũ đi ngược gió, vẫy tay cười lại. 

Hiền như tiên. 

Tự dưng, cảnh quay tiếp theo hiện ra. Tôi thấy... Đêm tối. 

Trong một căn bếp lụp xụp, có mỗi một bóng đèn mù mịt. Bảng đen viết đầy những công thức loằng ngoằng. Có hai đứa học sinh ngồi quây quần cắt cái bánh trung thu nhân thập cẩm, và một người tóc bạc phơ ngồi cạnh, mỉm cười nhấm nháp ngụm trà nóng trong đêm thu mong manh.

Thầy ơi, thầy không ăn thập cẩm à, thế phải làm sao bây giờ. Tiếng đứa con gái cất lên lo lắng. Thằng con trai ngồi cạnh im lặng ăn miếng bánh nướng thơm lừng, còn người đó chỉ cười, bảo, ừ, hai đứa cứ ăn đi, còn lại để vào tủ lạnh, lúc nào cô về thì cô ăn. 

Tôi nhận ra, đấy chính là mình, với Âu Sơn, và thầy. 

Tôi thấy mình lúng túng, rồi cũng ngồi xuống, cầm con dao cắt bánh ra thành nhiều miếng nho nhỏ. Sau nhiều lần từ chối, cuối cùng thầy cũng ăn, và hai đứa học sinh cười thành tiếng. Căn bếp lụp xụp như sáng thêm. Sáng thêm. Mãi đến sau này tôi mới biết thầy không ăn được thịt mỡ, cứ đến cổ họng lại bị nôn ra, thế mà hôm ấy thầy vẫn ăn miếng bánh Trung thu, có lẽ chỉ để chúng tôi vui lòng. 

Đột nhiên muốn khóc. 

Thầy của tôi, vĩ đại như thế đấy. 

Có lẽ nhiều người không hiểu nổi từ vĩ đại. Tại sao lại vĩ đại? Tôi không thể diễn tả được cảm xúc của tôi khi nghe việc thầy không ăn được thịt mỡ, rồi liên tưởng đến miếng bánh trung thu ngày hôm ấy. Chỉ để chúng tôi vui, thầy đã ăn hết miếng bánh mà có thể làm thầy khó chịu suốt những ngày sau đó. Ai đó từng nói, tấm lòng người thầy vĩ đại lắm, và cũng trong sáng lắm, y như pha lê không bao giờ bị vấy bẩn. Đúng, đúng lắm. 

Những tháng ngày đó, bất kể nắng hay mưa, bất kể nóng nực hay lạnh giá, thầy, vẫn cặm cụi đi trên chiếc xe đạp cũ xỉn, dạy chúng tôi học. Tôi nhớ những ngày tháng 1, năm tôi lớp 7. Lúc ấy gió trời còn mạnh, và nắng thì hong hanh lắm. Tôi, với ba thằng con trai khác, ngồi trong lớp nghe thầy giảng Toán. Sơn đùa, bảo thầy sao không làm hiệu trưởng mà lại chấp nhận làm giáo viên quèn. Ôi, làm hiệu trưởng thì không quát được giáo viên đâu, còn làm giáo viên, học sinh không nghe thì tống nó ra khỏi lớp. Thầy bảo, như thế. Chúng tôi cứ cười mãi về câu nói ấy. Đến tận hai năm sau, tôi mới biết, thầy chấp nhận làm giáo viên là để dìu dắt thêm nhiều lớp học trò trước khi bước vào tuổi già. Sau này mới biết, tình cảm thầy dành cho học sinh chúng tôi còn nhiều hơn gấp tỉ tỉ lần những thứ công danh lợi lộc tầm thường.


Năm lớp bảy, có thầy, có những kì vọng và quyết tâm từ biết bao ngày trước, tôi đạt giải Nhất toán. Biết tin, thầy chỉ cười thật tươi. Nhưng trong mắt tôi, đó là nụ cười ấm áp nhất tôi từng biết. Nụ cười ấy khiến bao mệt mỏi, khó nhọc trở về số 0. Nụ cười khiến cho tất cả học sinh an lòng. Năm ấy, có lẽ là năm tôi hạnh phúc nhất. Không biết đã đi qua bao nhiêu ngày nắng, mưa? Chỉ biết, thầy đã đồng hành cùng chúng tôi trong suốt hai năm rưỡi. Hai năm rưỡi lọc cọc đạp chiếc xe cũ ấy, hai năm rưỡi dạy dỗ lũ học sinh lớp A nghịch như quỷ. Thầy chẳng hề than vãn lấy một lời. Các em là lứa học sinh cuối cùng của thầy, chỉ mong dạy được thật tốt, không muốn ai bị chửi mắng cả. Thầy trả lời cho câu hỏi của tôi về việc, tại sao chúng em mất trật tự mà thầy không nhắc. Lúc ấy, tôi không hiểu. Sau này ngẫm nghĩ lại mới ngộ ra. Hóa ra, chúng tôi chính là những kẻ vô ơn bậc nhất, không hiểu nổi tâm ý của thầy giấu trong từng con chữ. Mười ba tuổi, chỉ biết nghịch ngợm, vô ưu vô lo. Đâu biết người thầy vẫn cặm cụi chiến đấu với tuổi già và sức khỏe, ngày ngày lên lớp dạy dỗ cho những học sinh cuối cùng trong cuộc đời dạy học của mình. Hết học kì I năm tôi lớp 8, thầy có quyết định nghỉ hưu. Quyết định không hề vội vã, nhưng lại gây bất ngờ trong tập thể lớp. Tất cả xôn xao, và dường như có gì đó nghẹn ở trong tim, rất lạ. Dù biết, nhưng cuối cùng vẫn đến lúc phải chia tay rồi. 

Ngày chia tay, tôi tặng thầy một bó hoa kẹo mút. Chính tay dính từng bông hoa, chính tay ghim từng bó mút. Có lẽ đó là bó hoa xấu nhất tôi từng làm, nhưng cũng là bó hoa mang nhiều tình cảm nhất. Cũng là bó hoa đầu tiên tôi tặng cho sự chia ly. 

Thầy nghỉ rồi... Giáo viên mới dạy thay. Bài giảng sôi động, súc tích vô cùng. Nhưng thỉnh thoảng đột nhiên ngẩn ngơ. Vẫn ngỡ thầy còn ở đây, ngay trên bục giảng, viết những con số vốn bị chê “xấu mèm” nhưng thật rất rõ ràng. Ngỡ rằng thầy vẫn sẽ đi cùng chúng tôi qua những năm tháng còn lại. Không, không còn nữa rồi! Đó là những tháng ngày khó khăn nhất. Không có thầy ở bên cạnh dạy dỗ, không có ai cười hiền từ động viên trong những ngày khó khăn. Năm đó, tôi tụt hạng, chỉ đạt giải Ba. Đề rất dễ. Thế mà, điểm cũng chỉ đạt “nhì non”. Lúc ấy, tôi mới biết hóa ra thầy ảnh hưởng đến tôi nhiều như thế. 

Lên lớp 9, ông nội dẫn tôi xuống nhà thầy. Từ đó, tôi chính thức học thêm với thầy. Chính thức bắt đầu một năm học tuy vất vả nhưng tràn đầy niềm vui. Ngôi nhà mà chúng tôi học, cũng chính là ngôi nhà thầy đã sống suốt mấy chục năm qua. Cả một đời người vất vả chỉ có một khoảnh sân nho nhỏ để phơi nắng, một căn bếp tối, lụp xụp, cái nhà xây lợp lá cọ mát rượi trong những ngày nóng bức, và cả một cây trứng cá lúc nào cũng bị lũ học sinh nhăm nhe chọc quả. Thầy bảo, như thế đã là hạnh phúc lắm rồi. Đôi khi tôi nghĩ thầy sống sao mà giản đơn quá. Thầy chỉ cười. Không, thế đã là quá đủ rồi. 

Tôi không biết đủ là gì, không biết tại sao thầy có thể hài lòng. Sau đó nhiều tháng, tôi mới được nghe thầy kể về biết bao ngày khó khăn thầy đã trải qua. Đấy là những năm tháng vất vả đến bần hàn. 

Thầy là sinh viên nghèo, không có đủ đồ ăn nên ốm nhom ốm nhách. Trải qua một thời khó nhọc, con người luôn có khuynh hướng hài lòng với hiện tại, dù cho hiện tại ấy chỉ hơn thời khó khăn ngày xưa một chút xíu. Chính thế, thầy sống giản dị, tiết kiệm vô cùng. 

Từ lúc học thêm chỗ thầy, nghe thầy nói về những điều thầy đã trải qua, bất giác tôi cũng sống tiết kiệm đi nhiều lần. Không còn phung phí tiền bạc và đồ dùng như trước đây nữa. Người ta bị ảnh hưởng bởi những người mà được coi là quan trọng. Tôi nghĩ, tôi cũng vậy. Đôi khi tôi nghĩ, có phải thầy đã ảnh hưởng đến tôi theo một cách đặc biệt nào đó? Nghĩ nhiều lần, rồi mới phát hiện ra, thầy chính là một hình tượng mà tôi luôn khát khao muốn vươn tới, một tượng đài vĩ đại, một người mà tôi luôn mong mỏi đạt được thành công như vậy.

Không chỉ là một người thầy, thầy còn là người cha, người anh, người bạn luôn lắng nghe, luôn cho những lời khuyên bổ ích nhất khi tôi cần. Thầy không chỉ dạy tôi môn Toán, thầy còn dạy tôi cách làm người, cách sống và phấn đấu để càng ngày càng tốt đẹp hơn. Máy quay dường như đang chậm lại, từng cảnh từng nét hiện lên rõ ràng. Tôi thấy thầy đang lụi hụi trồng rau, chăm sóc con chó lông trắng đen già khụ, thấy cả chúng tôi ngày đó, trong những ngày vất vả nhưng yên bình. Tôi nghĩ, có lẽ đó là những ngày hạnh phúc và vui vẻ nhất tôi từng có. 

Sau này, khi bước đi trên đường đời chông gai, có thể sẽ chẳng còn ai chỉ bảo, dạy dỗ tôi tận tình như thầy đã từng, có thể sẽ chẳng có ai lo tôi liệu có ngủ đủ giấc, liệu có stress khi nhồi nhét quá nhiều. Nhưng, cố nhân từng nói, cuộc đời chỉ cần một người khiến ta ngưỡng mộ, để cả đời noi gương, cả đời thương mến. Vậy là quá đủ rồi. 

Khi viết những dòng này, tôi đã là học sinh cấp III. Không chỉ hôm nay, mà còn cả ngày mai, ngày kia, nhiều ngày sau nữa, nhất định tôi sẽ tiếp tục cố gắng. Để mỗi khi gặp ai, trò chuyện cùng ai, có thể tự hào nói, tôi, là học sinh của thầy Nguyễn Văn Tâm. Có những lúc nhớ thầy, phóng vụt xe đi, tìm về ngôi nhà nhỏ cuối phố cũ với cây trứng cá xum xuê, ngồi nghe thầy nói về những điều thầy tâm đắc, về những điều thầy mong mỏi và răn dạy tôi cho đến mãi sau này. Tìm về nơi duy nhất khiến tâm hồn thanh thản, khiến cho mọi thứ phức tạp của cuộc đời trở nên dễ dàng và trong sáng hơn. Vẫn là những ngày mùa hạ đã cũ, tôi cảm giác như mình đang xốc ba lô lên vai, đạp cái xe đạp của mình, lao đi trong nắng vàng. Đến nơi tràn đầy kiến thức mà tôi hằng yêu kính".

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014

BÁO TRUNG QUỐC BÔNG DƯNG...TỨC TỐI

Báo Trung Quốc bỗng dưng… tức tối!


Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, chúng ta trang bị vũ khí không phải để gây chiến tranh mà là để bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc mua cái gì, của ai là quyền của người mua và người bán, không liên quan đến ai thì sao họ lại tự cho mình cái quyền “khó chịu” hay “tức tối”?

Báo chí Trung Quốc đã tỏ ra tức tối về việc Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam.

Hôm thứ sáu vừa qua (9/10) trên tờ Nhân dân Nhật báo, trang báo chính thức của chính phủ Bắc Kinh bình luận: “Đây không phải là hành động có suy xét” đồng thời đưa ra lời răn đe: “việc nhập khẩu vũ khí Mỹ sẽ không giúp gì cho sự đồng thuận đã đạt được giữa hai nước (Việt Nam và Trung Quốc – NV). Nó sẽ gây tổn hại sự ổn định và làm phức tạp thêm căng thẳng giữa hai nước”.

Không chỉ thế, bài báo còn chĩa công kích vào chính sách của Mỹ và tỏ ra “tị nạnh”: “Chính sách của Mỹ không nhất quán. Một mặt dỡ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam, Mỹ vẫn đang duy trì lệnh cấm bán vũ khí với Trung Quốc, giới hạn xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao khác” và “Mỹ cần phải lưu ý rằng chính sách thiển cận về bán vũ khí này với các nước láng giềng của Trung Quốc sẽ được xem là ví dụ của xung đột gián tiếp”.

Thôi thì việc của Trung Quốc với Mỹ là việc của họ, ta không nên bàn.

Nhưng với Việt Nam, họ có quyền gì mà tỏ ra “tức tối”, “khó chịu” nhỉ?

Còn nhớ chiều 24/9 tại New York, trả lời câu hỏi “Ông có lo là việc đó (nới lỏng bán vũ khí – NV) sẽ khiến Trung Quốc khó chịu, gây thêm rắc rối?” của chính giới Mỹ tại Hội châu Á (Asia Society), Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã thẳng thắn: “Việt Nam nếu không mua vũ khí từ Mỹ thì sẽ mua từ các nước khác, tại sao Trung Quốc phải khó chịu chứ”.

Một câu trả lời ngắn gọn, rõ ràng, đanh thép và bản lĩnh thể hiện đầy đủ thái độ và khát vọng của nhân dân Việt Nam ở mọi khia cạnh.

Thứ nhất, Việt Nam hoàn toàn quyền quyết định mọi hành động của mình bởi đó là một dân tộc có chủ quyền, nói như đức vua Quang Trung là “Nước Nam ta có chủ”.

Thứ hai, chỉ một câu ngắn gọn nhưng đã thể hiện sự độc lập tuyệt đối của một dân tộc yêu chuộng hòa bình và tôn trọng luật pháp quốc tế.

Thứ ba, dân tộc Việt Nam biết mình làm gì, phải làm gì, sẽ làm gì và tự chịu trách nhiệm trước cộng đồng tiến bộ thế giới. Không và không bao giờ phụ thuộc vào sự “thích” hay không “thích” của bất cứ ai.

Nói cách khác, không ai có thể “điều chỉnh” hay “chi phối” được đất nước này, dân tộc này.

Tuy nhiên, là một dân tộc hòa bình, chúng ta trang bị vũ khí không phải là để gây chiến tranh. Phương châm đối ngoại của VN là “ba không”: Không liên minh quân sự, không có căn sự quân sự của nước ngoài ở VN và không liên minh với nước này chống lại nước kia.

Không liên minh quân sự để xâm lược nhưng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhân dân Việt Nam luôn có những người bạn khắp nơi trên thế giới sẵn sàng giúp đỡ, ủng hộ vì chúng ta có chính nghĩa và luôn hành động đúng với chuẩn mực của luật pháp quốc tế.

Không có căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ của mình bởi nhân dân Việt Nam không muốn biến đất nước này thành bãi chiến trường hay tiếp tay cho những mưu đồ xấu.

Không liên minh “bè phái” để chống nhau nhưng một khi động đến dù chỉ một mét đất của tổ tiên để lại thì toàn dân Việt Nam sẽ quyết tâm bằng mọi giá, cả dân tộc sẵn sàng đứng lên để bảo vệ lãnh thổ đến cùng.

Đất nước này đã từng sẵn sàng “đốt cháy cả dải Trường Sơn” để bảo vệ nền độc lập, tự do và chủ quyền Tổ quốc thiêng liêng.

Tóm lại, Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, chúng ta trang bị vũ khí không phải để gây chiến tranh mà là để bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc mua cái gì, của ai là quyền của người mua và người bán, không liên quan đến ai thì sao họ lại tự cho mình cái quyền “khó chịu” hay “tức tối”?

Bùi Hoàng Tám (Dân Trí)

PHẢN BIỆN XÃ HỘI

Trần Đăng Tuấn


Người xưa nói “Một người lo bằng kho người làm”, cũng lại nói “Ba ông thợ bằng một ông Gia Cát”, khẳng định việc nghĩ không phải đặc quyền của một số ít người.

Hãy nhìn xung quanh, ta sẽ thấy đâu cũng có sự phản biện. Một cánh đồng lúa xanh êm đềm chứng minh có một vẻ đẹp khác ngoài vẻ đẹp của núi non hùng vĩ. Người chơi bonsai bậc thượng thừa giật mình trước một thế cây tự nhiên trong mé núi không ai để ý.

Hãy quan sát cuộc sống tập thể: mỗi ngày làm việc, mỗi cuộc họp, thậm chí chỉ hai người tán gẫu với nhau là muôn lần cọ xát các ý kiến khác nhau, góc nhìn khác nhau. Bằng cách đó tập thể chọn lựa phương án tối ưu cho từng công việc lớn nhỏ. Hãy nhìn vào bản thân mình. Từ sáng đến chiều mỗi người luôn tự phản biện để rà soát, sửa đổi hình dung, suy nghĩ, quan niệm, phương pháp trước đó của bản thân, để rồi hoàn chỉnh cách nghĩ, cách làm cũ hoặc thay bằng cách mới.

Phản biện, tự phản biện là cách để cuộc sống diễn ra, cuộc sống đi lên. Nó là điều tự nhiên. Đó không phải là vấn đề muốn hay không muốn. Ở vị trí quyền lực, coi trọng phản biện, sẽ có được phản biện xã hội có tổ chức, giúp ích lớn cho ổn định và phát triển; ngược lại, tránh né phản biện xã hội, kết quả là nhận được phản biện xã hội tự phát - mảnh đất thuận lợi để hình thành tâm thế phản kháng xã hội.

Nhưng áp dụng điều tự nhiên ấy vào cuộc sống xã hội, vào quản lý xã hội lại là việc không đơn giản. Ít nhất có ba vật cản với phản biện xã hội.

Vật cản thứ nhất là sự khó chịu thường tình với ai "trái ý". Người ta vẫn hay ca ngợi "Người hay cãi" nói chung, và vẫn ác cảm với "Người hay cãi" cụ thể ở trong đơn vị của mình, dưới quyền mình.

Vật cản thứ hai là ngại sẽ nảy sinh cái gì đó "bất ổn", ảnh hưởng đến vị thế của cá nhân hay cơ quan quyền lực. Thực ra phản biện xã hội nghiêm túc, đúng đắn khác hẳn với phản bác, mặc dù nó có thể bao gồm phản bác trong những trường hợp đặc biệt, nhưng điểm quan trọng nhất: Phản biện nhằm rà soát, khẳng định, bổ sung, đề xuất giải pháp đúng để thực hiện các mục tiêu xã hội thống nhất. Lo lắng quá đáng chuyện phản biện xã hội dẫn đến phản kháng, gây mất ổn định, trong đa số các trường hợp xuất phát từ căn bệnh ích kỷ của người, của cấp đang có quyền lực. Mà căn bệnh ích kỷ ấy cũng lại... rất tự nhiên, rất khó tránh.

Vật cản chủ quan thứ ba là: Ngại việc. Ngại mất thời gian; ngại tốn tiền bạc (một cuộc trưng cầu dân ý dĩ nhiên là tốn kém, không thể làm tràn lan được). Ai đó ngầm nghĩ trong bụng "Rách việc! Trăm người trăm ý, chắc gì đã hơn một người quyết". Những người đó không hiểu một điều là: thực hành dân chủ bao giờ cũng mất thời gian, mất công sức hơn là quyết định một chiều. Cái hay duy nhất của dân chủ là tránh được sự độc đoán, quan liêu. Mà độc đoán, quan liêu sớm muộn đem lại những khốc hại khôn lường. Cách diễn đạt, khái niệm có thể khác, nhưng tinh thần và cội rễ của vấn đề đâu có khác với những yêu cầu Bác Hồ đã đòi hỏi rất sớm, khi chính quyền công nông của ta chỉ 1 - 2 tuổi đời - đó là phê bình, tự phê bình, tự chỉ trích để tiến bộ. Còn trước đó, Lênin đã kêu gọi công nhân dùng tổ chức công đoàn để đấu tranh với chính Nhà nước xô viết của mình, nhằm giữ cho nhà nước ấy khỏi mắc căn bệnh quan liêu. Vậy mà giờ đây còn có sự rụt rè khi đề cập đến phản biện xã hội, còn có sự né tránh với khái niệm xã hội dân sự (thiếu cái thứ hai này phản biện xã hội sẽ rất nghèo nàn), thì thật không nên.

Đã biết bao lần do có sự “rò rỉ" nào đó mà báo giới biết có một dự thảo chính sách, trong đó có những điều bất hợp lý, đang ở giai đoạn sắp thông qua. Dự thảo đó được mổ xẻ trên công luận. Cuối cùng, rất may là ở dạng ban đầu nó... không được thông qua nữa. Cũng có nhiều ví dụ khác, khi có những quyết định được đưa ra một cách rất bất ngờ (do quá trình chuẩn bị được giữ kín, không rò rỉ). Tiếc thay sự trôi chảy về hành chính lại không đem lại sự suôn sẻ lúc thực hiện. Bao nhiêu bất hợp lý nảy sinh, cuối cùng quyết định dẫu có hiệu lực hành chính vẫn chết yểu.

Rõ ràng, đã đến lúc phản biện xã hội phải thành nguyên tắc trong quá trình chuẩn bị và thông qua các quyết định liên quan đến cuộc sống, quyền lợi của đông đảo mọi người. Người xưa nói “Một người lo bằng kho người làm”, ý nhấn mạnh đến vai trò, vị trí của người nắm quyền quản lý, lãnh đạo. Nhưng người xưa cũng nói “Ba ông thợ bằng một ông Gia Cát”, để khẳng định việc nghĩ, việc lo không phải đặc quyền của một số ít người.