Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

SỨ MỆNH VÀ SỬ MỆNH CỦA ĐẠI HỌC ĐẲNG CẤP

1. Lời nói đầu 

Đặt lại vấn đề về Sứ Mệnh ĐHQGĐL 

Trên 35 năm hành nghề “buôn óc bán phổi” ở nhiều đại học, đây là lần đầu tiên (và chắc hẳn cũng là lần duy nhất) tôi tham dự lễ khai giảng. Tôi “bị” Giáo sư Lý, ngài Hiệu trưởng “tự cử dân bầu” của chúng ta, “phạt” phải tham dự.
Có phải vì Lý Hiệu trưởng biết tôi vốn “lười họp biếng hành”, chưa bao giờ tham dự bất cứ lễ khai trường hay tốt nghiệp nào, nên “ép buộc” tham dự buổi lễ năm nay chăng? Cũng có thể vì biết rằng tôi sắp tới tuổi về “hành nghề Ô-sin”, nên ngài hiệu trưởng phải tận dụng “bóc lột” sức lao động cuối cùng chăng? Nhưng dù thế nào đi nữa, đây là một vinh dự. Xin chân thành cám ơn Lý hiệu trưởng đã có nhã ý dành cho tôi cơ hội chia sẻ với các bạn sinh viên đồng học và quý đồng nghiệp về một vấn đề mà chúng ta thao thức đeo đuổi. Về chính cái lý do “tồn tại” của đại học chúng ta (“to be or not to be” theo William Shakespeare (1564-1616)). Về cái lý do tại sao các bạn sinh viên nằm gai nếm mật để có thể nhập đại học này. Về cái động lực thúc đẩy quý đồng nghiệp không màng tiền bạc (và có lẽ, bỏ vợ bỏ con ở nhà), miệt mài trong phòng thí nghiệm, hy sinh đời mình cống hiến cho đại học. Vâng tôi muốn đặt lại cái sứ mệnh của Đại Học Quốc Gia Đài Loan (ĐHQGĐL) của chúng ta, một điều mà cho đến nay ít thấy ai bàn luận. Tôi muốn đưa ra một lối nhìn khác, phải coi sứ mệnh là chính cái sử mệnh của chúng ta.
Ngạn ngữ có câu “trung ngôn, nghịch nhĩ”. Tôi thì chẳng có “trung ngôn” nhưng lại thích “loạn ngôn”, nên hy vọng Lý hiệu trưởng và ban giám hiệu sẽ không hối hận vì đã “trót dại” dành cho tôi dịp nói chuyện này. Quý vị có thể sẽ ngứa tai, nhưng xin đừng rửa tai sau bài nói chuyện. Cũng đừng đổ cho tôi cái tội “đầu độc, làm băng hoại sinh viên”, cái tội mà nhà hiền triết Socrates vì đó đã bị án tử hình. Tôi chưa xứng đáng làm đồ đệ cho vị triết gia này, và dĩ nhiên tôi chẳng dại gì (hay đúng hơn, thiếu can đảm) tự sát như ông ấy. Ít nhất tôi chưa phải “chiến đấu”với một phụ nữ như Xythander, bà vợ “hiền dịu” hơn cả “mãnh hổ Sơn Đông” của Socrates.

2. Sứ Mệnh và Sử Mệnh của ĐHQGĐL 

Câu hỏi đặt ra, đó là tại sao lại phải bàn về sứ mệnh. Không phải đó chính là cái sứ mệnh “Đôn Phẩm, Lập Học, Ái Quốc, Ái Nhân” thấy trên huy hiệu của Trường, mà Nhà nước Trung Hoa Dân Quốc đã nhồi nhét vào đầu sinh viên ngay vừa khi họ tiếp thu Đại Học Đế Quốc Đài Bắc Taihoku) từ Nhật đó sao? Đó không phải là cái mục tiêu lọt vào trong nhóm 100 trường nổi tiếng nhất thế giới mà ban giám hiệu đã đặt ra dịp sinh nhật 80 của Trường tháng 11 năm 2007, và nhờ đó mà đã vòi vĩnh quốc hội được hàng trăm triệu Mỹ kim mỗi năm hay sao?
Ý kiến của tôi xem ra đi ngược với lối nhìn của nhiều nhà (chứ không phải tất cả mọi giới) lãnh đạo giáo dục, và dĩ nhiên, đối nghịch với nhà nước Trung Hoa Dân Quốc. Tôi không nghĩ mục đích của chúng ta chỉ nhắm vào việc “lọt vào” số 100 trường giỏi nhất thế giới (mặc dù chúng ta bắt buộc phải thuộc hàng đầu thế giới), và tôi càng không nghĩ là tám chữ vàng son “Đôn Phẩm, Lập Học, Ái Quốc, Ái Nhân” phải là cái sứ mệnh riêng của chúng ta.
Lý do thật đơn giản. Khi nhà nước Quốc Dân Đảng (và trước đó, mọi triều đại) ép buộc chúng ta phải nuốt chửng tám chữ vàng đó, họ muốn chúng ta trở thành một đàn bò, đàn dê, đàn cừu... Giáo dục nhồi sọ nhắm sản xuất loại sữa chua loét khoét thủng dạ dầy. Nó không thể tạo ra loại sữa ngọt bổ dưỡng thân thể. Đó chính là mục tiêu của bất cứ một chế độ chuyên chế nào. Trường học chẳng khác trại lính, hay công xưởng là bao. Vậy thì, thử hỏi, có trường đại học nào trong một chế độ chuyên chế khác với đại học chúng ta? Mục đích như vậy đâu có phải là đặc thù của riêng ai đâu? “Đôn phẩm,” rồi “lập học,” rồi đao to búa lớn hơn, “ái quốc", “ái nhân", đã được nhồi nhét vào đầu óc các em học sinh ngay từ nhỏ, và cả hàng trăm, hàng ngàn năm nay. Chúng ta đâu còn xa lạ gì với những khẩu hiệu “trung quân, ái quốc” đầy rẫy trong sách vở, trong những lời tuyên huấn mà giới trẻ nhàm chán. Đó là những thực phẩm “bổ béo” nhưng không thể tiêu hóa, những đồ uống sang trọng nhưng “càng uống càng khát”. Đó là những “bộ áo” của những ông vua tự sướng với ảo giác “oai phong, lẫm liệt”. Bộ áo đã chẳng che đậy được cái thân thể xấu xí, mà ngược lại càng lột trần cái sự ngu dốt của ông ta.
Thực vậy, từ thời đức Khổng Tử tới nay, chúng ta đã có được mấy ai “yêu người” thực sự, “yêu nước” theo đúng nghĩa? Yêu nước đã biến thái thành “yêu vua”, “yêu chúa”, “yêu đảng”, “yêu lãnh tụ”, chứ có phải là yêu nước là yêu dân như thầy Mạnh Tử dạy đâu! Và cả bao ngàn năm “lập học” rồi, nhưng tại sao đại học hàng đầu của chúng ta cứ lẹt bẹt cầm đèn đỏ cho những đại học hàng đầu Anh, Mỹ?
Mọi người chúng ta đều thấy, bất cứ trường nào ở hai bên eo biển Đài Loan, và cả ở những vùng nói tiếng Trung cũng đều có những khẩu hiệu rất hoành tráng, to tát vĩ đại (nhưng không thực tế, hay đúng hơn, không tưởng) như thế cả. Nếu mà ai cũng như nhau thì làm thế nào ĐHQGĐL của chúng ta có một chỗ đứng duy nhất trong xã hội người Hoa, và trong thế giới? Nếu cứ vậy mãi thì làm sao trở thành lãnh đạo?
Rồi cái mục tiêu nằm trong 100 đại học hàng đầu của thế giới thì lại càng “vớ vẩn” hơn nữa. Lấy tiêu chuẩn nào để xếp hạng? Câu hỏi này vẫn còn chưa có một câu trả lời nào được đồng thuận. Nếu theo Times Higher Education Supplement (THES), và theo Quacquarelli Symonds (QS), thì hiện nay chúng ta đã nằm trong cái danh sách 100 của thế giới học thuật đó rồi(1). Nhưng chúng ta có được nhìn với ánh mắt mà thiên hạ dành cho Harvard, Cambridge, Oxford, Princeton... chưa?(2) Viện Công Nghệ của chúng ta xếp hạng 29 trên thế giới, nhưng có được để ý như Massachusetts Institute of Technology (M.I.T) hay California Institute of Technology (Caltech) không? Khoa Triết Học của chúng ta cũng xếp rất hoành tráng, hạng 43 trên thế giới(3). Nhưng thử hỏi có lý thuyết gia nào ảnh hưởng tới thế giới không. Khoa Triết của ĐH Frankfurt, xếp đồng hạng với chúng ta, nhưng họ có cả hàng chục triết gia như Jurgen Habermas, Theodor Adorno, Max Horkheimer, Karl Otto Apel... những triết gia thực sự ảnh hưởng sâu rộng tới cả thế giới từ bao năm nay. Còn chúng ta? Mang danh nằm trong “tốp 100”, nhưng sự thực (đáng xấu hổ), đó là chúng ta chỉ biết bám đuôi làm chú bé xách giầy cho Harvard, Oxford, Cambridge, Princeton, Yale... nhưng lại kiêu căng tự mãn với cái hư danh “Harvard Đài Loan”, “Harvard Trung Quốc”.
Tôi thiển nghĩ, mục đích hay sứ mệnh (mission) của chúng ta phải cùng một lúc là sử mệnh (historical destiny). ĐHQGĐL phải tạo ra lịch sử, một lịch sử định đoạt cái số mệnh của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), ảnh hưởng sâu rộng tới Trung Quốc Đại lục, và đóng góp vào việc thay đổi số mệnh của nhân loại. Để vừa là sử mệnh, vừa là sứ mệnh, ĐHQGĐL bắt buộc phải là một đại học lãnh đạo theo đúng nghĩa của nó. Lãnh đạo là đi tìm đường; lãnh đạo là dẫn đường; lãnh đạo là chỉ đường; lãnh đạo là xây đường... Nói một cách đơn giản: lãnh đạo là người đi trước. Đi trước trong mọi lãnh vực trên thế giới là đại học đẳng cấp thế giới. Đi trước trong phạm vi nhỏ hẹp, hay trong một không gian, thời gian nhất định, là đại học đẳng cấp quốc gia, hay vùng, hay của một ngành nào đó. Ước vọng của chúng ta không chỉ đào tạo lãnh đạo cho Đài Loan mà còn cho toàn thế giới và cho mọi ngành. Uớc vọng của ĐHQGĐL phải là đẳng cấp thế giới theo đúng nghĩa của đẳng cấp.
Để biện minh cho quan niệm này, tôi xin bắt đầu với việc đòi hỏi phải thay đổi lối nhìn của chúng ta về sứ mệnh đại học. Thứ đến, tôi xin bàn về những đặc tính hay thành tố tạo nên một đại học lãnh đạo (với tựa đề “Khi Sứ Mệnh Biến Thành Sử Mệnh”). Và phần thứ ba kết luận, tạm đưa ra một phương hướng để hoàn thành sứ mệnh tạo ra lịch sử (với tựa đề “Đường Ta Ta Đi”(4).

3. Hãy thay đổi lối nhìn 

Chúng ta từng sống trong một thế giới nhỏ hẹp và đóng kín. Vì vậy mà chúng ta nghĩ rằng, chúng ta là trung tâm vũ trụ (cái tên Trung Quốc tự nó đã phản ánh một cách rất trung thực lối suy nghĩ ngô nghê thiển cận này). Thế giới của chúng ta đã không cần một ai ở ngoài, hay từ trong thoát ra ngoài rồi trở lại, nói cho chúng ta biết tất cả sự thật về thế giới bên ngoài. Bởi vì chúng ta đã tự tôn tự đại cho mình nắm được chân lý. Giống như nhóm tù nhân trong huyền thoại “Sơn động” của đại triết gia Plato(5), chúng ta không những gạt bỏ người dám nói lên sự thật, mà còn tố khổ họ, hoặc sát hại họ. Người Nhật của thời Minh Trị (1868-1912) đã nhận ra sự thật sau phát súng thần công của đô đốc Matthew C. Perry ở vịnh Edo (vịnh Tokyo) vào năm 1852. Họ biết khiêm cung chấp nhận sự trội vượt của thế giới Tây phương. Họ gửi người đi học tập, và nghiêm túc tiếp thu Tây học(6). Và điều này làm lên sự khác biệt giữa Trung Quốc và Nhật Bản: một nước trì trệ, một nước tiến bộ.
Trong một thế giới đóng kín, và tự cao tự đại, tự mãn... thì lối nhìn đại học cũng khác biệt lạ đời. Mục đích của giáo dục nói chung, và của đại học chúng ta nói riêng không phải là lãnh đạo, phát minh, phát triển, tiến bộ... mà là phục vụ, phục tòng và phụ giúp(7). Phục vụ đòi buộc phải “học theo, nghe theo, đi theo, làm theo, sống theo”. Phục tòng đòi buộc thái độ “không nhìn, không nghe, không nói” (của ba chú khỉ Mizaru, Kikazaru và Iwazaru ở đền thờ Tosho-gu, mà các bạn thấy bán khắp nơi)(8). Phụ giúp nói lên tính chất phụ thuộc, không quan trọng, đó là tính chất công cụ của người giúp việc như Ô-sin, hay nô lệ. Người ta đã đổ đốn hạ cấp giá trị trí thức thành cái giá trị công cụ, chẳng khác chi cái giá trị của người giúp việc (under-labourer, theo John Locke)(9). Một quan niệm sai lầm nguy hiểm bắt đầu với Francis Bacon, rồi Locke, và đạt đến cao điểm của sự khốn cùng trí thức với cái tên họ Mao (Trạch Đông), nhà “lãnh tụ vĩ đại toàn năng hơn cả Thượng Đế” (như bọn Hồng Vệ Binh và lũ ngụy trí thức đã từng ngợi ca). Họ Mao đã khinh miệt giới trí thức như “cục phân” và coi bạo lực như nền tảng “siêu hình” của quyền lực. Và Mao không chỉ là một cá biệt ngoại lệ. Ngay cả ngày nay vẫn còn biết bao “kẻ sĩ” khom lưng tung hô sự “vĩ đại” của hai cha con (và bây giờ thì ba ông cha cháu) nhà họ Kim, và biết bao những nhà lãnh đạo tối cao khác... Họ học theo Trung Quốc của “chúng ta” đấy mà!
Như vậy, các bạn thấy đó, “phục vụ” không đòi buộc, mà còn chống lại sáng tạo, cải cách. Nếu giáo dục chỉ để phục vụ, thì mạo hiểm, thám hiểm chỉ cần trong lúc chiến tranh, để bảo vệ chế độ. Tương tự, phát minh chỉ được trọng dụng nếu nó có thể phục vụ (quân đội, công an, bảo an, giao thông...). Những nghiên cứu tạo ra phát minh, những cuộc thám hiểm... chỉ là những công cụ để phục vụ chế độ mà thôi. Phát minh ra các vũ khí tân tiến, bom các loại, ngay cả loại bom hủy diệt... không phải để làm chân lý sáng ngời, làm tăng kho tàng trí thức, hay bảo vệ giá trị con người. Những phát minh này nhắm bảo vệ một chế độ, một nhóm người, hay một lãnh tụ nào đó, hay kinh hoàng hơn, để hủy diệt nhân loại. Bắc Triều Tiên đã “chế tạo” được bom nguyên tử nhưng với cái giá cực đắt: hằng triệu đồng loại chết đói, hay còn đương rã họng chờ chết. Chúng ta cố tình quên đi rằng, bản chất của sáng tạo, phát minh, mạo hiểm, khám phá và cải cách, vân vân, nằm trong tự do, nhờ vào tự lập và nói lên tính tự chủ của con người.
Đúng thế! Lịch sử đã làm chứng cho sự thật bi thảm này. Đã có một thời nước Nga sản sinh ra nhiều bác học, vĩ nhân, những nhà lãnh đạo trong nhiều lãnh vực. Nhưng nhiều chục năm liên tục ở TK XX, trí thức đã bị đánh đồng với người phục vụ chế độ. Những ai sống chân thật với bản chất trí thức của mình đã bị vùi dập. ĐH Lomonosov, một biểu trưng cho sáng tạo, đã bị ma thuật quyền bính biến thành đồ trang trí cho nhà nước. Ở Trung Quốc Đại lục thời Mao Trạch Đông, số phận giới trí thức còn bi đát hơn nữa. Theo hay chống Mao, họ đều bị cái ông “Tần Thủy Hoàng đỏ” này coi không hơn cục phân. ĐH Bắc Kinh không còn là bộ óc của Trung Quốc. Nó biến thái thành một trung tâm huấn luyện những đầu óc rượu thịt chức quyền. Đại Học Nhân Dân thành xưởng tuyên truyền và ĐH Thanh Hoa đào tạo những kỹ sư không đáng được gọi là thợ tốt. Các giáo sư, chuyên gia hàng đầu của đất nước bị bắt đi chăn bò, nuôi heo, canh tác, vân vân. Các nhà nghệ sĩ thành danh bị lôi cổ đi cầy bừa thay thế trâu bò. “Đại Cách Mạng Văn Hóa” (1967-1977) không chỉ phá sản văn hóa đạo đức, mà còn tái hiện thực cơn ác mộng Tần Thủy Hoàng một cách vô văn hóa nhất trong lịch sử nhân loại. Và mãi đến gần đây, người Trung Quốc mới nhận ra được cái thảm kịch này, khi mà thấy mình tụt hậu sau thế giới “tư bản giãy chết” cả mấy chục năm.
Ngay ở Đài Loan chúng ta, dưới thời Tổng thống Tưởng Giới Thạch, cho dù được đối đãi khá hơn đồng nghiệp bên Đại lục, giới trí thức vẫn bị coi là giới phục vụ. Thầy cô giáo đều được xếp chung với công chức, quân đội, cảnh sát, tức là những người phục vụ. Và chúng ta bây giờ phần nào hiểu được sự trì trệ của Trung Quốc cho đến gần đây, và cả của Đài Loan vài chục năm trước. Khi nào mà giáo dục còn là công cụ cho nhà nước, hay cho đảng phái, hay cả tổ chức tôn giáo, thì lúc đó khó có thể có sáng tạo, phát minh. Thì lúc đó thám hiểm chỉ là những cuộc mạo hiểm “đần độn” mà thôi.
Như vậy, các bạn sinh viên đã nhận ra phần nào cái góc của tảng băng ngầm: phục vụ không thể tạo ra cái mới, không thể thay đổi thế giới. Vậy thì, đã đến lúc chúng ta bắt buộc phải thay đổi lối nhìn về sứ mệnh đại học của chúng ta. Hãy coi sứ mệnh như là sử mệnh. Thay vì coi phục vụ như sứ mệnh, thì chúng ta phải tự tạo ra định mệnh của mình. Hãy lấy sáng tạo làm sử mệnh.

4. Khi Sứ Mệnh biến thành Sử Mệnh 

ĐH Harvard lấy việc truy tầm và bảo vệ chân lý làm sứ mệnh, và họ đã làm lên lịch sử. ĐH Berlin lấy việc tìm kiếm và bảo vệ tri thức; và dùng tri thức để xây dựng đất nước làm sứ mệnh. Nó cũng đã tạo ra lịch sử. Tương tự, sứ mệnh của một Sorbonne, của một Oxford, của một Cambridge, của một Princeton, hay của một Yale hay của một Stanford cũng đã đóng góp vào lịch sử nhân loại không ít. Chỉ cần vào mạng Wikipedia thì chúng ta cũng đã nhận ra được ảnh hưởng của họ trên nhân loại rất nhiều. Những đại học này đồng nhất sứ mệnh với sử mệnh. Tạo ra lịch sử, đó chính là sứ mệnh.
Vậy thì, câu hỏi đặt ra, tại sao chúng ta cũng có sứ mệnh, nhưng không thể tạo được lịch sử? Có phải là sứ mệnh của chúng ta bị hạn chế vào vai trò công cụ? Có phải sứ mệnh của chúng ta bị chủ nghĩa “thôn xóm” (thị xã, provincialism) hay “bộ lạc” (tribalism) ràng buộc? “Thôn xóm” nên được hiểu theo nghĩa rộng của chủng tộc, tôn giáo, giai cấp, triều đại, đảng phái, gia tộc, chế độ, cơ chế. Vâng, đại học của chúng ta đã từng “vang bóng một thời” làm nô lệ cho các chủ thuyết trên. Và vì danh vì lợi chúng ta quên khuấy đi sử mệnh của mình. Chúng ta đã không làm nên lịch sử. Ngược lại, chúng ta là đồng phạm làm lịch sử trì trệ, méo mó, độc điệu, đen đủi...
Thế nên, để tìm lại sứ mệnh, chúng ta phải tìm ra sử mệnh của mình. Cái sứ mệnh lịch sử của đại học phải là xây dựng tri thức mới, phải là cải tổ thế giới, phải là làm thế giới tốt đẹp hơn, phải là khám phá những gì mới lạ, phải là đi tìm một tương lai tốt đẹp hơn cho con người... Và để được như vậy, chúng ta cần đào tạo nên những người dám mạo hiểm, biết khám phá, có năng lực phát minh, lấy sáng tạo làm lẽ sống, và nhất là có tinh thần cải cách. Tôi xin được giải thích ngắn gọn như sau:Mạo hiểm và thám hiểm (Adventure) 

Không biết các đại học của chúng ta đã đào tạo ra được ai dám mạo hiểm vào những nơi chưa ai biết đến chưa? Làm sao mà chúng ta có kiến thức mới nếu không có những nhà mạo hiểm như Christopher Columbus (1451-1506), người khám phá ra Tân Thế Giới? Làm sao có được thuyết tiến hóa, nếu không có những người như Charles Darwin (1809-1882), mạo hiểm mò mẫm những nơi khỉ ho cò gáy, nơi những sắc dân xa lạ, đầy nguy hiểm rình rập? Oxford từng đào tạo ra những nhà khảo cổ đi tới tận cùng các ngõ ngách địa cầu. Và Harvard ngày nay cũng thế.
Chúng ta khó có thể có một nền khoa học văn minh như ngày nay nếu thiếu những nhà thám hiểm này. Từ lên cung trăng cho xuống tới tận đáy đại dương, từ bay cao cho đến lặn sâu, họ đã thắng vuợt sự hãi sợ... và đó chính là tâm điểm của một nền giáo dục mà Aristotle đã từng ca ngợi (trong Nicomachean Ethics).Khám phá (Discovery) 

Gắn liền với mạo hiểm là khám phá. Các bạn chỉ cần mở đài truyền hình Discovery bạn sẽ thấy một cách hiển nhiên, đó là tính mạo hiểm và khám phá có liên hệ mật thiết với nhau. Mạo hiểm mà không có mục đích, mà thiếu phương pháp, mà không biết ghi chú, phân tích, tổng hợp chỉ là những cuộc mạo hiểm thông thường thỏa mãn nhất thời. Khám phá mới đích thực là một mạo hiểm khoa học. Mạo hiểm phải là thám hiểm.
Khám phá có thể do mạo hiểm, nhưng khám phá nói chung là kết quả của một quá trình tìm tòi không biết mệt. Những nhà khoa học lớn là những người tìm tòi, suy tư và tổng hợp không biết mệt. Isaac Newton đã khám phá ra hấp lực của trái đất (1687), để rồi phát minh ra luật hấp lực do động lực tương quan với tốc độ sau cả bao nhiêu thời gian quan sát, suy tư, thử nghiệm. Khám phá đòi mạo hiểm, và chấp nhận gian nan thử thách. Chẳng có mấy ai có thể khám phá ra điều gì đáng giá nếu cả ngày làm bạn với TV, suốt đêm ôm dàn Karaoke, và miệt mài “nghiên cứu” trong những quán cà phê thâu đêm suốt sáng. Dĩ nhiên, không thể có khám phá mới nếu chúng ta chỉ biết mò mẫm trên mạng sao chép, hay chạy chọt quan hệ. Đi tắt đón đường, thói xấu “dân tộc", có thể tạo cơ hội làm quan, hay giúp ta “nổi tiếng” nhất thời, nhưng chẳng có lợi gì cho tiến bộ. Đại học chúng ta đã từng có rất nhiều giáo sư “nổi danh” vì quan hệ rất tốt. Họ chạy chọt được những ghế bộ trưởng, thậm chí làm tới thủ tướng. Chúng ta cũng có rất nhiều “người nổi tiếng” với những “shows” trên TV, báo chí. Không biết đáng vui hay đáng buồn! Tôi nghĩ, đúng phải là đáng xấu hổ. Nhân tài được mời ra giúp nước, đúng. Nhưng dựa vào quan hệ chạy chọt luồn cúi làm quan thì đáng phỉ nhổ(10).Phát minh (Invention) 

Phát minh là tạo ra, hay sửa đổi, hay hoàn mỹ công cụ giúp cuộc sống tiện lợi, dễ chịu hơn. Thomas Edison (1847-1931) với 1093 sáng chế đã khiến cho cuộc sống con người dễ chịu, tiện lợi hơn rất nhiều. Phát minh không nhất thiết đồng nghĩa với sáng tạo. Nhưng phát minh đòi hỏi một thái độ biết phê phán và tinh thần khoa học. Biết nhìn ra cái sai, biết tìm ra những điều gì chưa hoàn hảo trong bất cứ công cụ nào, hay cách tổ chức nào, hay lối suy tư nào... và tìm cách thay đổi, khắc phục với một kỹ thuật mới, một chất liệu khác, một phương pháp khác... đó chính là phát minh. Một phát minh đáng giá bắt buộc phải được thí nghiệm hay thử nghiệm. Sự cải tiến phương pháp trị liệu ung thư và bệnh nan y AIDS của David Hà Đại Nhất (David Ho, 1952) là một ví dụ. Hay sự phát minh sông đào là một sáng kiến, phát minh vĩ đại trong việc trị thủy của Vũ Vương (c. 2200-2100 BC), người đã tạo ra lịch sử.Sáng tạo (Creative Work) 

Nhìn vào bề dày của một đất nước, chúng ta nghĩ ngay đến những bộ mặt làm nên lịch sử. Chúng ta có thể quên vua chúa, nhưng không thể quên họ. Họ là những nhà thám hiểm, những nhà khám phá, những nhà phát minh, những nhà cải cách, và đặc biệt là những nhà sáng tạo. Gia tài của nước Đức là Immanuel Kant, là Wolfgang Goethe, là Ludwig van Beethoven, là Albert Einstein, là Martin Luther... những người sáng tạo. Lịch sử của Mỹ không chỉ được hình thành với những người như George Washington, Thomas Jefferson, mà còn với Abraham Lincoln, Martin Luther King, hàng trăm nhà bác học vĩ đại, những nhà phát minh như Thomas Edison, những triết gia như John Dewey và những nhà sáng tạo tiên phong trong mọi ngành. Một Bill Gates, một Steve Job, và những cái tên đình đám ở thời đại chúng ta mà ai cũng biết, nói lên vai trò quan trọng của sáng tạo: sáng tạo khoa học, sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo tư duy, sáng tạo kỹ thuật, sáng tạo ngôn ngữ, vân vân.
Sáng tạo là đi trước, là dẫn đầu, là khám phá, là độc đáo, là mạo hiểm. Sáng tạo làm tiền đề cho cải cách, cho cách mạng, và tạo ra hy vọng. Nói chung, một đất nước thiếu sáng tạo là những đất nước chạy theo. Một đại học thiếu sáng tạo là một trường nghề nối dài, một trung tâm huấn luyện những con người không cần suy tư, chỉ cần nghe mệnh lệnh và làm việc như những người máy. Một đại học thiếu sáng tạo cũng chính là một đại học thiếu cá tính, thiếu “nhân cách.”Cải cách (Reform) 

Nhưng điều kiện quan trọng và động lực tất yếu nhất giúp tiến bộ, đó chính là cải cách. Nhà cải cách là những người thừa kế sáng tạo, và phát minh, cũng như là một người mạo hiểm cao độ. Với bộ óc sáng tạo, với cách làm việc của nhà phát minh, họ nhận ra những khuyết điểm của khoa học hiện nay, của xã hội hiện đại, của cơ cấu, pháp luật hiện hành, của nền kinh tế sai hướng, của một hệ thống chính trị sa lầy. Quan trọng hơn, họ thấy được cái sai của chính quan niệm về vai trò cũng như năng lực của con người. Họ nhận ra được cái sai, có thể là do họ dựa vào những khám phá mới, vào những tư tưởng tiên tiến, hay từ chính bài học lịch sử. Điều quan trọng là họ nhìn ra những góc tối mà chúng ta không nhìn thấy, hay không muốn nhìn thấy. Họ là những nhà phê phán gay gắt nhất. Nói như Karl Marx (1918-1883), phê phán phải là tiền đề cho cải cách...(11).
Điều quan trọng hơn nữa, nhà cải cách biết đưa ra những phương thế mới, và họ mạo hiểm dẫn đường, mặc kệ những khó khăn nguy hiểm, để hoàn tất sứ mệnh này. Những nhà sáng lập các tôn giáo là những nhà cải cách vĩ đại. Một Đức Giê-su, một Đức Phật, một Đức Mohammed, hay Đức Khổng... đã tạo nên những lịch sử ngàn năm, thậm chí vạn năm. Lịch sử nhân loại gắn liền với tên các ngài. Dĩ nhiên, những “siêu” đại vĩ nhân trên không cần đại học, nhưng một Martin Luther, một Karl Marx, một Martin Luther King, hay ngay cả Abraham Lincoln đều là những người từng tốt nghiệp đại học... Họ mới chính là những người xứng danh khiến đại học biến thành đẳng cấp.

5. Đường ta ta đi 

Đã từng có một thời chúng ta “tự hào” cho mình là “Harvard tại Trung Quốc”, hay “Harvard tại Đài Loan”. Phải nói, đây là một “tự hào” đáng xấu hổ. Nó phát xuất từ cái căn tự ti bệnh hoạn sau cú giáng định mệnh của Tây phương lên đầu chúng ta vào cuối thế kỷ 19. Họ ép buộc Trung Quốc phải chấp nhận sự thua kém quá xa của mình. Họ khiến cái cao ngạo tự phong mình là “cái rốn của vũ trụ” nổ be bét ra như trái bong bóng bị kim châm. Và từ đó, chúng ta bị cái mặc cảm “tự ti tự kiêu” giam hãm. Hơn 90 năm trước, đã có một thời cái khẩu hiệu “Vào vào Bắc Đại, đi đi Ca Đại” đã cắm ngập sâu vào lòng giới hàn lâm Tầu, nói lên cái tâm thức “tự ti tự kiêu” này. Tới ngày nay, bản chất nó vẫn thế. Các bạn chỉ cần thay đổi cái khẩu hiệu: “Vào, vào Đài Đại, đi đi Ha Đại”(12), mà thôi. Khẩu hiệu rỗng tuyếch này vẫn nói lên cái căn bệnh “tự ti tự kiêu” bất trị này. Chúng ta phải biết. Dẫu là một “Harvard Đài Loan” thì chúng ta vẫn chỉ là đàn em, hay “cậu bé” chưa trưởng thành, suốt đời cứ phải chạy theo đuôi học hỏi Harvard thôi. Suốt đời ta vẫn là cậu học trò ngoan ngoãn, bám gót xách cặp cho ông thầy Harvard. Hãnh diện hay xấu hổ? Thật đáng xấu hổ!
Đã đến thời đoạn mà ta phải tự đứng lên bằng chính đôi chân của mình. Nói theo Max Weber, nếu chúng ta đã biết cách leo lên vai những người khổng lồ để nhìn xa hơn, biết rộng hơn chính họ, thì quan trọng hơn, đã đến lúc chúng ta phải biết tự “tạo” biến mình thành người khổng lồ. Cho dù ai đứng trên vai, trên đầu, hay “cưỡi trên lưng, trên cổ” chúng ta, thì họ vẫn phải dựa vào chúng ta. Lọt vào trong sổ 100 đại học không dễ gì, nhưng để trở thành một đại học lãnh đạo theo đúng nghĩa dẫn đầu, để người khác dựa vào, và đi theo, hay leo lên vai mình, thì mới thực sự khó. Leo lên vai người khổng lồ không dễ, nhưng làm người khổng lồ mới thật sự là một thách đố cho ĐHQGĐL của chúng ta.
Con đường duy nhất để trở thành lãnh đạo, như tôi đã trình bày với quý bạn, đó chính là nỗ lực không ngừng để khám phá, phát minh ra cái mới. Đó chính là tinh thần mạo hiểm, óc sáng tạo, và dám cải cách. ĐHQGĐL để xứng đáng là đại học lãnh đạo, phải là cái nôi sản sinh ra những nhà mạo hiểm, những nhà khám phá, những nhà phát minh, những nhà sáng tạo và nhất là những nhà cải cách. ĐH Oxford đã đào tạo những người mạo hiểm, những nhà lãnh đạo như Winston Churchill, những người thủ lãnh của nhiều quốc gia trên thế giới. Sorbonne cũng đã có một thời danh vang bốn bể, là cái nôi của đầu óc thế giới. ĐH Berlin đã tạo ra những con người như Marx, đã biết trọng dụng những bộ óc vượt thời gian như Hegel, Einstein; y hệt ĐH Cambridge là cái nôi cho những nhà lãnh đạo khoa học như Newton, Paul Dirac... Cambridge cũng “đẻ” ra những nhà lãnh đạo Singapore và biết bao nước khác. Những đại học này chính là những đại học đẳng cấp theo đúng nghĩa là đi trước, biết trước, làm trước... để mọi người theo sau. Họ chính là những người khổng lồ mà mọi người khác phải dựa vào, hay trèo lên vai họ mới có thể biết rộng hơn, nhìn xa hơn và làm hiệu quả hơn.

6. Tạm kết 

Quý bạn sinh viên đồng học thân mến, tôi xin kết thúc bài nói chuyện 30 phút này với lời cám ơn gửi tới các bạn. Cám ơn đã lắng nghe một ông thầy giáo già (hay đang bước vào tuổi già). Không thấy có ai ngủ gật, không nghe thấy tiếng rì rầm trò chuyện... Sự kiện này nói lên sự khác biệt giữa chúng ta và ĐH Bắc Kinh hay ĐH Thanh Hoa tại Bắc Kinh. Tôi từng tham dự lễ mừng 100 năm thành lập ĐH Bắc Kinh, rồi lễ thành lập Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Chính Trị tại ĐH Thanh Hoa. Vào những dịp này rất nhiều nhân vật quan trọng Trung Quốc “hạ chân” đến đại học (chúc mừng thì ít, huấn đạo thì nhiều). Họ cúi đầu đọc bài tham luận (dài lê thê). Thế nên tôi chẳng ngạc nhiên khi thấy sinh viên, giáo sư, học giả chẳng mấy ai thèm để ý. Ngay cả vị Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào (tại ĐH Bắc Kinh), hay nguyên Thủ tướng Chu Dung Cơ (tại ĐH Thanh Hoa) cũng chẳng thấy mấy ai thèm nghe. Thính giả ồn ào hơn buổi chợ sớm. Mà diễn giả thì giọng rống lên như đứng trước ba quân. Chẳng có gì giống môi trường đại học cả.
Tôi cũng xin cám ơn Lý Hiệu trưởng một lần nữa. Ông là một người họa hiếm đã không theo con đường lấy quyền uy để lãnh đạo đại học. Trong phần mở đầu, tôi có nói đùa là bị ông “phạt” bắt phải công tác sớm. Và tôi có nhắc tới là có thể sẽ làm phật lòng ông và Ban Giám hiệu. Không, không có chuyện ấy. Lý Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu là những nhà khoa học cải cách. Thay vì mời Tổng thống, Thủ tướng hay một nhà tỉ phú hay một nhân vật thời danh nào đó đến phát biểu (như thường thấy trong quá khứ), Lý Hiệu trưởng đã mời một kẻ vô danh tiểu tốt như tôi. Thay vì yêu cầu tôi tới gặp ông ở Toà Hiệu trưởng, ông đã hạ mình qua tận phòng làm việc của tôi nhiều lần. Và thay vì đòi buộc phải có bài thuyết trình in ra trước, ông và Ban Giám hiệu đã chấp nhận việc tôi đứng trước các bạn với một tờ giấy, nguyệch ngoạc với vài ý tưởng. Đây là một dấu chỉ của một cuộc cải cách âm thầm, thay đổi cái thế giới trật tự cố định của “quan trước dân sau, thầy trên trò dưới”, từng được bảo vệ một cách cực đoan cả bao ngàn năm nay.
Từ thái độ của các Bạn, từ quyết tâm cải cách của Lý Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu, tôi phần nào tin là chúng ta sẽ đi đúng con đường để trở thành một đại học lãnh đạo theo đúng nghĩa. Hãy đi trước trong nhiều lãnh vực. Hãy làm hay hơn những gì mà người ta đã từng làm. Hãy biết tìm ra sai lầm, và sửa đổi. Hãy mạo hiểm, có tinh thần sáng tạo... đó chính là châm ngôn của Đại học của chúng ta. Đó mới là sứ mệnh; và đó cũng là sử mệnh của ĐHQGĐL./.
Giáo sư Trần Văn Đoàn 
----------------------------------- 

(1) Theo bảng xếp hạng của THES năm 2012, ĐHQGĐL xếp hạng 61-70 trên toàn thế giới. Năm 2007, nằm ở nhóm 91-100, năm 2011, nằm trong nhóm 81-90. Theo QS, ĐHQGĐL được đánh giá cao hơn. Riêng Trường Triết Học được xếp hạng 43 trên thế giới. Theo bảng đánh giá của Đại Học Giao Thông, Thượng Hài (ARWU), ĐHQGĐL xếp hàng đầu trong các vùng nói tiếng Trung (Hoa), trên ĐH Hongkong, ĐH Bắc Kinh, ĐH Thanh Hoa (Bắc Kinh).
(2) Ngay cả giới học thuật của những nước lân bang như Phi Luật Tân, Việt Nam, Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Mã Lai Á, Nam Dương, vân vân, không có mấy ai biết gì về ĐHQGĐL, đừng nói đến các nước xa hơn ở Âu châu, Nam Mỹ hay Phi Châu.
(3) Khi được thông báo “tin vui” này, tôi sững sờ tưởng mình nhầm. Và bỗng cảm thấy hụt hẫng sau vài phút kiêu hãnh. Nhiều đại học cùng đẳng cấp (như Heidelberg, Frankfurt...), hoặc xếp dưới (như ĐH Vienna của Áo, họ có những nhà tư tưởng lừng danh ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới như Weber, Gadamer, Popper, Arendt, Nhóm Viên (Wienerkreis), Freud... Vậy thì chúng ta có ai không?
(4) Câu này tôi dựa theo thi hào Alghieri Dante. Ông viết trong Thần Khúc (La comedia divina): “Seguir il tuo corso e lascia dir la gente.” (Đường anh anh đi, kệ cha thiên hạ nói). Karl Marx từng trích câu này trong lời tựa đề lần xuất bản thứ hai của tập sách Tư Bản Luận (1867).
(5) Plato, “The Myth of Cave.” Trong The Republic (514a).
(6) Marius B. Jansen, The Makin of Modern Japan (Cambridge: Harvard University Press, 2000). Những nhà tân học như Ito Hirobumi, Matsukata Masayoshi, Kido Takayishi, Itagaki Taisuke, Mori Arinori... đã làm thay đổi nước Nhật.
(7) Paolo Freire, một nhà giáo dục cải cách Ba Tây đã từng nêu lên vấn nạn này trong tác phẩm quan trọng Pedagogy of the Oppressed (1968. Eng. trans. 1970) (New York: Continưm, 2007). Tôi cũng đã mạnh mẽ phê bình lối giáo dục sai lệch này của Trung Quốc trong tập sách The Poverty of Ideological Education (Taipei: The Ministry of Education, 1991 / Revised: Washington DC: The Council for Research in Values and Philosophy, 2000).
(8) Thực ra ba chú khỉ được người Nhật coi như là một biểu tượng của tu thân: Chú khỉ Mizaru che mắt để không thấy điều ác, chú khỉ Kikazaru bịt tai để khỏi nghe thấy những lời thối tha, và chú khỉ Iwazaru bịt miệng để không nói điều thô tục. Biểu tượng này được lấy từ Luận Ngữ: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” ww.wikipe dia.org/wiki/Three_wise_monkeys
(9) John Locke, Essays on Human Understanding (1689/90). Epistle to the Readers
(10) Theo thống kê, thì 100% tổng thống dân cử , 80% bộ trưởng, 85% đại pháp quan, 90% viện sỹ... của Đài Loan đều là cựu học sinh của ĐHQGĐL.Không ít dựa vào những mối quan hệ, đảng phái.
(11) Karl Marx, Critique of Hegel’s Philosophy of Right (1844): “For Germany the critique of religion has been essentially completed, and the critique of religion is the essential precondition for all criticism.”
(12) Bắc Đại, tên tắt của ĐH Bắc Kinh, “Ca Đại,” tên tắt của ĐH Columbia (tại New York); Ha (Đại, tên tắt của ĐH Harvard (tại Boston), và Đài Đại, tên tắt của ĐHQG Đài Loan (tại Đài Bắc).

Nguồn bài viết: Ở đây
Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet.
Được đăng bởi Bau Trinh Xuan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét