Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc - Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc - Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 16 tháng 7, 2015

Google Map loại bỏ "TAM SA" khỏi vị trí quần đảo Hoàng Sa

Google Maps bỏ “Tam Sa” khỏi vị trí quần đảo Hoàng Sa

TT - Sau khi loại bỏ cái tên Trung Quốc dùng để chỉ bãi cạn Scarborough của Philippines, mới đây Hãng Google cũng ngừng sử dụng tên “Tam Sa” mà Bắc Kinh dùng chỉ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Hình ảnh tòa nhà của Trung Quốc tại nơi gọi là TP Tam Sa chiếm đóng trái phép trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Tên gọi này không được công nhận - Ảnh: AFP

Trên ứng dụng Google Maps, cái tên “Sansha” (Tam Sa) bất hợp pháp đã không còn xuất hiện ở vị trí của quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, thay vào đó là “Paracels Islands”, tên quốc tế của quần đảo Hoàng Sa.

Trả lời Tuổi Trẻ, bà Amy Kunrojpanya - giám đốc truyền thông và đối ngoại, Việt Nam, Thái Lan và các thị trường mới nổi, thuộc Google châu Á - Thái Bình Dương - cho biết Google đã cập nhật Google Maps để khắc phục vấn đề tên gọi.

“Chúng tôi có một chính sách lâu dài áp dụng trên phạm vi toàn cầu về việc mô tả các khu vực tranh chấp, trong đó không có sự xác nhận hay khẳng định vị trí là thuộc quốc gia hay vùng lãnh thổ nào” - bà Kunrojpanya giải thích.

Trước đó, Google Maps cũng đã ngừng sử dụng cái tên “Hoàng Nham” để chỉ bãi cạn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines, được Manila gọi là Panatag hoặc Bajo de Masinloc và dùng tên quốc tế Scarborough.

Trung Quốc mô tả bãi Scarborough là một phần của “quần đảo Trung Sa” (Zhongsha) và Google Maps đã ngừng sử dụng cái tên này. Khi bỏ cái tên “Hoàng Nham”, Google Philippines thừa nhận: “Chúng tôi hiểu rằng các cái tên địa lý có thể dẫn tới những cảm xúc mãnh liệt.

Đó là lý do chúng tôi nhanh chóng sửa chữa ngay sau khi được thông báo”. Google Philippines cũng cho biết cách tốt nhất để đưa ra kiến nghị về các tên gọi trên Google Maps là liên hệ trực tiếp với trang Trợ giúp của ứng dụng bản đồ này.

Trước đó, hàng ngàn người Philippines đã ký vào bản kiến nghị trên trang Change.org để kêu gọi Google Maps loại bỏ cái tên “Hoàng Nham”. Đại diện Change.org, bà Christine Roque nhận định việc Google Maps thay đổi tên gọi cho thấy sự đồng lòng của cộng đồng mạng có thể tạo ra sự thay đổi.

“Đó là quyền lực của nhiều người đồng lòng, thống nhất với nhau vì một mục đích chung” - bà Roque nhấn mạnh.

Hiện trên trang Change.org cũng có một bản kiến nghị thay đổi cái tên biển Nam Trung Hoa (South China Sea) mà cộng đồng quốc tế dùng để gọi Biển Đông (theo cách gọi của Việt Nam) thành “biển Đông Nam Á”.

Kiến nghị gửi tới Liên Hiệp Quốc, các tổ chức quốc tế và chính quyền các nước Đông Nam Á đã thu hút hơn 10.000 chữ ký từ người dân 76 quốc gia trên thế giới. Trước đó chính phủ, truyền thông và người dân Philippines đã chọn cái tên “biển Tây Philippines” để thay cho tên “biển Nam Trung Hoa”.

Nhiều học giả quốc tế cũng lên tiếng ủng hộ việc thay đổi tên “biển Nam Trung Hoa” thành “biển Đông Nam Á”.

Học giả Yang Razali Kassim, Trường nghiên cứu quốc tế S Rajaratnam (RSIS, thuộc ĐH Công nghệ Nanyang, Singapore), cho rằng cái tên “biển Đông Nam Á” là hoàn toàn phù hợp với vị trí địa lý của Biển Đông và đây là thời điểm phù hợp để đổi tên.

Philippines mở lại căn cứ quân sự vịnh Subic

Hôm qua, Hãng tin Reuters cho biết giới chức Philippines quyết định đưa máy bay chiến đấu và hai tàu khu trục đến vịnh Subic vào năm 2016. Đây là lần đầu tiên khu vịnh này - vốn là căn cứ quân sự cho Mỹ thuê - được Manila sử dụng như một căn cứ quân sự trong 23 năm qua.

Giới chuyên gia an ninh nhận định việc sử dụng vịnh Subic cho phép không quân và hải quân Philippines phản ứng hiệu quả hơn trước những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.

Cảng nước sâu ở vịnh Subic nằm trên mạn phía tây của đảo Luzon, hòn đảo chính của Philippines và đối diện Biển Đông.

“Giá trị của Subic là một căn cứ quân sự đã được Mỹ chứng minh. Các nhà hoạch định quốc phòng Trung Quốc đều biết chuyện này” - chuyên gia an ninh của Philippines Rommel Banlaoi cho biết.

Là một trong những cơ sở hải quân lớn nhất của Mỹ trên thế giới, vịnh Subic đã đóng cửa năm 1992 sau khi Thượng viện Philippines chấm dứt thỏa thuận cơ bản với Washington.

Hồi tháng 5-2015, Bộ Quốc phòng Philippines đã ký văn bản thuê lại một phần vịnh Subic phục vụ cho nhu cầu quân sự của nước này. Vịnh Subic đối diện Biển Đông và chỉ cách bãi cạn Scarborough bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép khoảng 270km.

Giới chức Philippines cho biết một khi vịnh Subic trở thành căn cứ quân sự thì hải quân Mỹ có thể sẽ tiếp cận và luân chuyển lực lượng Mỹ ở Philippines dễ dàng hơn. Hiện nay tàu chiến của Mỹ chỉ đậu ở vịnh Subic khi có tập trận với hải quân Philippines hoặc sử dụng các cơ sở thương mại ở đây để sửa chữa và tiếp tế hậu cần.

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Philippines Pio Lorenzo Batino cho biết đầu năm 2016 quân đội sẽ triển khai hai máy bay chiến đấu FA-50 tới căn cứ ở vịnh Subic. Sau đó, một đội máy bay FA-50 và máy bay Fighter Wing sẽ được triển khai tiếp tục.

“Máy bay chiến đấu FA-50 có thể tiếp cận bãi cạn Scarborough chỉ trong vài phút, tàu tuần tra cùng máy bay không người lái của Philippines cũng sẽ dễ dàng theo dõi mọi cử động của lực lượng Trung Quốc trên Biển Đông” - chuyên gia Patrick Cronin của Trung tâm An ninh Mỹ giải thích. (MỸ LOAN)

HIẾU TRUNG

Con sói Sam Rainsy - Hậu duệ của Khmer đỏ

Mầu

Campuchia được cho là 1 quốc gia Đông Nam Á tương đối ổn định về an ninh chính trị kể từ sau tuyển cử tự do năm 1993 (có giám sát của Liên hiệp quốc) nhưng thực chất chỉ là hình thức. Thực tế, khi quốc gia này chấp nhận đại diện Khmer đỏ có ghế trong Chính phủ (cơ chế đa đảng), thì đất nước này chưa bao giờ hết bất ổn nội bộ, đặc biệt từ khi Siam Rainsy trở về vào năm 2006.

Huống chi một trí thức Tây học cầm đầu đảng đối lập CNRP như Siam, hẳn phải hiểu rõ những giá trị dân chủ phổ quát phương Tây, nhưng lại luôn tư duy và hành động nặng mùi Đại Hán !
.........

Trong bối cảnh ấy Hunsen, nhà lãnh đạo Campuchia suốt mấy thập kỷ qua vừa phải hỏi lại Mỹ, Pháp, Anh về bản đồ có biên giới giáp với Việt Nam.

Còn Phay Siphan, người phát ngôn của Chính phủ nước này thì tuyên bố: 

"Vấn đề biên giới chỉ có thể được xử lý bởi chính phủ. Và nó không phải bổn phận của các chính trị gia khi họ kích động các hoạt động phản đối dọc theo biên giới. Họ sử dụng miệng lưỡi của mình bằng mọi cách chứ không phải là tư duy phê phán" (ám chỉ Siam và đảng CNRP của ông này).
............

Điều đó cho thấy rõ, dù có những tuyên bố nghiêng về Trung Quốc trong vấn đề biển Đông vì lợi ích của mình thì Chính Phủ Hunsen cũng không thể không nhận ra nguy cơ phải "đối diện" với Việt Nam, nếu lại bắt đầu bằng những hành động xung đột ở biên giới 2 nước cũng như nhiều trò kích động bài Việt, thậm chí còn đập phá cả mồ mả của những người đã sống lâu đời tại Campuchia!

Hunsen -1 thành viên của Khmer đỏ, người từng phải chạy trốn sang Việt Nam vì phải chứng kiến những gì tàn bạo nhất trong lịch sử loài người do đảng của ông ta gây ra, người từng công khai cảm ơn Việt Nam vì đã cứu dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng, người từng chứng kiến sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam khi giải phóng Phnompenh chỉ trong vài tuần lễ ...hẳn trong thâm tâm, cũng không thể không có lúc ân hận vì đã để sói ở lại trong lều. 

Con sói ấy chính là hậu duệ Khmer đỏ Siam Rainsy!

Nguồn: Copy từ stt của FB Mầu

Bộ Ngoại giao lên tiếng về thông tin Việt Nam chuyển vũ khí về phái Tây Nam

Viết Thịnh


(PLO) - Thông tin Việt Nam chuyển vũ khí về phía Tây Nam không có tính xác thực. Đó là khẳng định của ông Lê Hải Bình, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tại cuộc họp báo thường kỳ của bộ vừa diễn ra chiều nay 16/7.

Theo đó, trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến việc gần đây trên một số trang mạng xã hội có đưa thông tin Việt Nam chuyển một số vũ khí về phía Tây Nam, liên quan đến những bất ổn ở nơi đây, ông Lê Hải Bình khẳng định: “Các thông tin này không có tính xác thực”.

Bày tỏ quan điểm về việc tàu cá Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm ở khu vực vùng biển Hoàng Sa, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho hay: “Ngay khi có những thông tin này, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã tích cực xác minh nhằm có cơ sở phục vụ cho việc đấu tranh về ngoại giao”.

Ông Bình cũng khẳng định vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa là vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam và vùng biển Hoàng Sa là ngư trường truyền thống của ngư dân Việt Nam từ lâu nay. “Chúng tôi phản đối mạnh mẽ mọi hành động ngăn cản ngư dân Việt Nam hoạt động làm ăn bình thường trên ngư trường truyền thống của mình”- ông Bình nhấn mạnh.

Cờ ba sọc bị Ted Osius đá ra rìa tại quận Cam

LâmTrực@


Sau chuyến ghé thăm cộng đồng người gốc Việt ở quận Cam, ông Ted Osius - đương kim Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã có buổi gặp gỡ, nói chuyện với cộng đồng người Việt tại San Jose tại văn phòng Hội đồng Thành Phố ở tòa Thị chính thành phố hôm 14/7/15. 

Tại buổi gặp, ông Osius đã giải thích cho khán thính giả biết chiến lược của chính quyền Obama đối với Việt Nam và thông báo kết quả đạt được trong chuyến thăm của TBT Nguyễn Phú Trọng theo lời mời của Chính quyền Obama. 

Một vài câu trả lời của ông Đại sứ đã được coi là những điểm nhấn thú vị trong cuộc gặp gỡ này với cộng đồng người Việt tại đây, vốn là những người đói thông tin chính thống và xác tin về Việt Nam, thậm chí có một số còn mang nặng tư tưởng hận thù, bất chấp đúng sai.

Ngay lời mở đầu, ông Ted Osius như đoán biết được sự kỳ thị mù quáng của một số người gốc Việt nơi đây, nên đã phủ đầu bằng cách bông đùa, rằng: "nhiều người Việt ở đây không thích giọng Bắc (75) của của tôi, nhưng chất giọng là do hai cô giáo Việt ngữ của tôi đã dạy". Ông cũng thông báo, sau 20 năm bình thường hóa quan hệ, ông chứng kiến Việt Nam đã thay đổi trên nhiều phương diện, đặc biệt là internet. Có hơn 30 triệu người dùng Facebook, và "giới trẻ bây giờ có thể nói chuyện, trao đổi thẳng thắn với nhau.". Ông cũng dẫn chứng những thay đổi trong giáo dục bằng các con số ấn tượng.

Trả lời câu hỏi mang màu sắc khiêu khích: "Trong thời gian nhiệm kỳ, ông có kế hoạch hay có cơ hội nào thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam không?", ông Ted Osius đã thẳng thắn làm cho những kẻ vẫn cuông vọng vào việc lật đổ thể chế chính trị tại Việt Nam phải cúp đuôi, rằng: "Chính phủ Hoa Kỳ không có kế hoạch thay đổi chế độ, nhưng có kế hoạch dùng ảnh hưởng để thay đổi về nhân quyền, điều kiện lao động, ...Nếu Việt Nam muốn tham gia TPP thì họ bắt buộc phải cam kết cải thiện vấn đề nhân quyền".

Khi được hỏi, về việc Trung Quốc đang hung hăng đe dọa Việt Nam, và liệu có khả năng gã hàng xóm to xác nhưng đê tiện này xâm lược Việt Nam không, ông Ted Osius đã cười sảng khoái rồi trả lời mạch lạc: "Người Việt Nam các bạn rất mạnh mẽ, không chịu khuất phục. Lịch sử hàng trăm năm chống lại Trung Quốc, từ hai Bà Trưng đến các anh hùng dân tộc đã chứng minh điều đó". Thật khó có thể có câu trả lời khác hơn vì ông đã quá hiểu Việt Nam.

Có lẽ điểm thú vị nhất mà các nhà báo và cộng đồng người VIệt tại đây được chứng kiến là khi trả lời câu hỏi, vì sao ông không chụp ảnh với cờ vàng ba sọc đỏ (Người Việt Nam gọi là cờ ba que sỏ lá)? Ted Osius đã không hề ngần ngại trả lời ngay: "là một nhà ngoại giao, làm việc trong ngoại giao đoàn của chính phủ, tôi không được phép làm như vậy (chụp ảnh với cờ vàng ba sọc). Nếu tôi xuất hiện trước công chúng dưới lá cờ vàng ba sọc, tôi sẽ bị điều về nước.".

Vậy là đã rõ, ông Ted Osius là quan chức Chính phủ, và buộc phải tuân theo lập trường của Chính phủ Mỹ, ông không thể làm những gì bất hợp pháp. Đối với Chính phủ Mỹ, lá cờ đại diện hợp pháp cho nước Việt Nam là lá cờ đỏ sao vàng, chứ không phải là lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Có lẽ, câu trả lời của ông Ted Osius không làm cho những người muốn lật đổ chế độ, hoặc thay đổi chế độ ở Việt Nam hiện này vui mừng, nhưng nó phản ánh một thực tế không thể đảo ngược rằng, lá cờ vàng ba sọc đỏ đã bị gạt ra rìa.

Cambodia, lá bài cũ và câu chuyện mới của người Trung Quốc

Lang Anh


Những ngày gần đây, báo chí thế giới và Việt Nam lác đác có những thông tin nhắc đến những mâu thuẫn lẻ tẻ nổ ra tại biên giới Việt Nam - Campuchia. Đây không phải là một câu chuyện mới mà đã bắt nguồn từ lâu trong quá khứ.

Những tranh cãi giữa Việt Nam và Campuchia về phần lãnh thổ ngày nay được gọi là đồng bằng sông Cửu Long (Lãnh thổ chính thức thuộc Việt Nam hiện đại) và Campuchia khmer krom (theo cách diễn giải của người Campuchia) từng kéo dài trong nhiều thế kỷ. Về mặt lịch sử, đây là vùng đất hoang vu gần như không người ở cho đến khi những đoàn khai hoang đầu tiên của người Việt và người Minh hương (người Trung Quốc thuộc Minh triều bại trận chạy sang Việt Nam lánh nạn và xin thần phục triều đình nhà Nguyễn) khai phá. Bằng nỗ lực trong nhiều thế kỷ, họ biến một vùng đất hoang vu, sình lầy thành một khu vực đông đúc và giàu có. Vùng đất này, được gọi là Nam Kỳ theo cách định danh chính thức của vua Minh Mạng vào năm 1832. Với sự kiểm soát trên thực tế trong nhiều thế kỷ, đây là vùng lãnh thổ được công nhận thuộc về Việt Nam theo mọi hiệp ước và bản đồ quốc tế hiện đại.

Năm 1859, Pháp bắt đầu công cuộc xâm lược Việt Nam. Do lợi thế vượt trội về nền văn minh, đến năm 1867, Pháp chính thức chiếm trọn toàn bộ lãnh thổ Nam Kỳ gồm 6 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên (Tên gọi cũ chính thức của Nam kỳ lục tỉnh). Biên giới chính thức giữa Nam kỳ và Campuchia được xác lập lần đầu tiên theo thỏa ước ký kết giữa Thống đốc Nam kỳ và Vua Norodom I vào ngày 09/07/1870. Sau đó ba nặm một hiệp ước khác được ký bổ sung vào ngày 15/08/1873. Nếu đối chiếu với bản đồ Đại Nam năm 1829, một số vùng đất thuộc Tây Ninh, Châu Đốc và Hà tiên của Việt Nam đã bị cắt về Cao Miên. Tuy nhiên, những hiệp ước này là những hiệp ước chính thức đầu tiên phân định ranh giới giữa Việt Nam và Campuchia. Biên giới hiện đại giữa hai nước ngày nay về cơ bản cũng được xác lập trên cơ sở của các hiệp ước này.


Tham vọng của Campuchia với vùng đất mà họ gọi là Khmer Krom chưa bao giờ tắt trong nhiều thế kỷ, bất chấp các hiệp ước quốc tế và hiện đại được các vương triều và chính quyền Campuchia nối nhau ký kết. Tuy nhiên, theo nhiều nghiên cứu quốc tế, xét cả về mặt lịch sử và thực tế, Campuchia chưa bao giờ kiểm soát Nam kỳ, dù là dưới vương triều cực thịnh nhất của họ vào thời đế quốc Angkor từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 12. Tuy nhiên, vấn đề Campuchia Krom luôn được nêu ra mỗi khi có một thế lực chính trị muốn tranh thủ tình cảm dân tộc cực đoan của người Campuchia. Thế lực gần nhất và khét tiếng nhất đối với yêu sách này, chính là Pon pot.

Không dựa trên bất cứ một bằng chứng lịch sử hoặc thỏa ước quốc tế nào, Pon pot chỉ đơn giản tuyên bố: "Bất cứ nơi nào có cây thốt nốt mọc, đó là đất của Campuchia". Cây thốt nốt mọc nhiều ở Cam, ở Thái cũng như ở Việt Nam. Yêu sách của Pon pot, tuy nhiên chỉ hướng tới Việt Nam. Bởi đơn giản, đó là một lá bài trong canh bạc được chơi bởi người Trung Quốc.

Chế độ Pon Pot là một trong những chế độ cai trị cực đoan nhất trong lịch sử hiện đại. Độ tàn ác của nó vượt gấp nhiều lần công cuộc kỳ thị do thái của Hitler. Nhà nước hồi giáo khét tiếng tàn bạo IS hiện nay nếu so với Pon Pot thì vẫn phải gọi Pon Pot là đại sư phụ. Hitler giết dân do thái, IS khủng bố những người Hồi Giáo tại Iraq hay Syris. Riêng Pon pot, diệt chủng chính dân tộc mình bằng những biện pháp cực kỳ tàn bạo.

Pon pot luôn tự nhận là người đại diện cho quyền lợi của Campuchia, tuy nhiên trên thực tế, ông ta là một người Campuchia gốc Hoa. Sau khi thâu tóm được quyền lực do làn sóng chiến tranh giải phóng dân tộc ở Đông Dương do Việt Nam làm nòng cốt và sự thoái lui của Mỹ, Pon pot thiết lập sự kiểm soát trên toàn lãnh thổ Campuchia từ ngày 17/04/1975. Trong vòng 4 năm, từ 1975 - 1978, theo mọi nghiên cứu quốc tế, Pon pot tàn sát từ 1,5 đến 2,3 triệu người Campuchia trên tổng dân số 8 triệu người. Nhiều nghiên cứu mới nhất thống nhất ở con số 1,7 triệu người Campuchia bị giết hại dưới thời Pon pot, tương ứng với 26% tổng dân số Campuchia. Nếu chế độ này tồn tại được thêm ít năm, với tốc độ giết hại như vậy, dân tộc Campuchia có lẽ chỉ còn tồn tại trong sách vở.

Như một cách để tập hợp dân chúng, Pon pot tìm cách gây chiến với Việt Nam. Về mặt đối nội, là để khơi gợi tình cảm dân tộc cực đoan của người Campuchia, để xao lãng và xoa dịu người Campuchia trước chính sách cai trị tàn bạo diệt chủng của chế độ Pon pot. Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách hung hăng của Pon pot với Việt Nam nằm dưới sự thúc đẩy trực tiếp của Trung Quốc, nước duy nhất hậu thuẫn cho chế độ Pon Pot, viện trợ hầu hết vũ khí và trang bị cho thế lực này, cùng với sự hiện diện của hàng chục nghìn cố vấn trên khắp lãnh thổ Campuchia.

Bắt nguồn sâu xa của sự kiện, là chính sách bành trướng nhất quán của Trung Quốc trải dài suốt quá trình lịch sử. Là một đất nước có truyền thống hung hăng và máu xâm lược thâm căn cố đế, chính sách xuyên suốt của mọi triều đại Trung Hoa, là luôn muốn làm suy yếu, kiểm soát và nếu được thì thôn tính các quốc gia láng giềng với nó. Công cuộc thôn tính của các triều đại Trung Quốc khá thành công. Nó thành công sát nhập Mãn Thanh, Nội Mông, Tây Tạng, Đại lý, nhiều vùng đất thuộc Bách Việt và Nam Việt cũ trong suốt quá trình xâm lược nối tiếp nhau trong nhiều thế kỷ. Duy nhất có một vùng đất, cuộc xâm lược của Trung Quốc bị chặn lại, là miền Giao Chỉ vốn là nơi phát tích của nước Việt Nam hiện đại. Nhiều thế hệ nối tiếp người Việt nỗ lực đánh trả các cuộc xâm lăng của các triều đại Hán, Đường, Tống, Minh, Nguyên, Thanh và nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa hiện đại. Đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, được xác lập về cơ bản dưới triều đại nhà Lý và giữ được tính ổn định gần như bất biến trong suốt 11 thế kỷ. Ngày nay, đường biên này đã được xác lập chính thức theo hiệp định phân giới Việt Nam - Trung Hoa. Với hơn 1065 km biên giới đất liền và 383 km biên giới mặt nước. Biên giới Việt Trung được xác lập bởi một hệ thống cột mốc dày đặc, tới 1378 cột mốc biên giới, một minh chứng hùng hồn cho thấy sự "hữu hảo" và "tin cậy" giữa hai quốc gia. Đây là đường biên có mật độ cột mốc dày đặc nhất so với mọi đường biên giới quốc gia trên thế giới. Không có gì ngạc nhiên vì người Việt từng gánh chịu ít nhất 13 cuộc chiến xâm lược nối tiếp từ các triều đại cai kỵ Trung Quốc, trải dài từ thời phong kiến đến thời hiện đại.

Chính sách của chính quyền Trung Quốc hiện nay với Việt Nam không khác gì chính sách của họ với Triều Tiên. Trung Quốc luôn tìm cách phân rẽ các nước cứng đầu giáp giới với họ, nhằm làm suy yếu các quốc gia này, để phụ thuộc hoàn toàn và nếu có điều kiện thì thôn tính sát nhập. Trung Quốc thành công ở Triều Tiên, khiến đất nước này bị cắt làm đôi kể từ năm 1952. Ngày nay, Hàn Quốc (Nam Triều Tiên) là một đất nước giàu mạnh hàng đầu thế giới, sánh vai với thế giới văn minh, riêng phần Bắc Triều Tiên chịu sự kiểm soát và thao túng trực tiếp của Trung Quốc, là một quốc gia nằm ở đáy của đói nghèo, luôn phải chìa tay xin viện trợ lương thực hàng năm, nhưng thường xuyên hung hăng hô hào chiến tranh với Nhật Bản, Hàn Quốc và với Mỹ. Trung Quốc cũng tìm cách áp đặt thực tế này với Việt Nam. Năm 1954, Trung Quốc thỏa thuận với các nước lớn tách đôi Việt Nam làm hai phần với ranh giới là vỹ tuyến 17. Trong nhiều năm sau đó, Trung Quốc viện trợ vũ khí cho Bắc Việt Nam để chống lại Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ, nhằm hai mục đích: Ngăn ngừa Việt Nam độc lập thống nhất và tránh việc để một chế độ thân thiện với Hoa Kỳ tiến tới sát lãnh thổ Trung Hoa. Cũng trong thời kỳ này, lợi dụng tình hình chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc tìm cách gặp nhấm dần từng vùng lãnh thổ của nước láng giềng, dù họ luôn hô hào mị dân là đồng minh của chính phủ do ông Hồ Chí Minh lập lên ở miền Bắc. Năm 1958, Trung Quốc chiếm đóng một nửa quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1974, lợi dụng tình hình chiến tranh Việt Nam đang ở thời kỳ cao điểm và Mỹ đã triệt thoái về nước sau hiệp định Paris năm 1972, Trung Quốc xua quân chiếm đóng nốt phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, quốc gia kiểm soát Hoàng Sa trên thực tế ở thời điểm đó đã có một nỗ lực kháng cự ngắn ngủi nhưng bất thành. Tuy nhiên, người Việt trên toàn thế giới lúc bấy giờ đã xuống đường biểu tình dữ dội để phản đối sự xâm lược của Trung Quốc.

Bằng những nỗ lực khôn ngoan và năng lực tác chiến cao, Bắc Việt Nam thành công thống nhất Nam Việt Nam, xác lập một nước Việt Nam thống nhất kể từ ngày 30/04/1975. Kết cục này không nằm trong chờ mong của Trung Quốc. Chính sách của Trung Quốc với chính phủ Cộng Sản Việt Nam, vốn được coi là đồng minh nhanh chóng thay đổi. Theo xu thế này, Pon pot được Trung Quốc hậu thuẫn nhằm làm một con bài quan trọng để suy yếu Việt Nam, bắt Việt Nam phải nghe lời và khuất phục trước các yêu sách thôn tính của người Trung Quốc.

Tàn bạo nhưng khờ khạo trong suy xét tình hình, Pon pot ảo tưởng rằng có thể chiến thắng Việt nam với sự hậu thuẫn của người Trung Quốc. Từ năm 1975 đến 1978, lính Khmer đỏ của Trung Quốc nhiều lần đột kích sang lãnh thổ Việt Nam, gây ra những vụ thảm sát tàn bạo tại Tây Ninh và An Giang (Riêng cuộc đột kích của Ponpot vào Tây Ninh ngày 25/09/1977, lính Khmer đỏ đốt phá 471 ngôi nhà và giết hại hơn 800 người Việt bằng những hình thức hết sức man rợ, mang tính đặc trưng của cách thức diệt chủng mà Ponpot tiến hành ở Campuchia). Dù các cuộc tấn công của Ponpot bị đánh thiệt hại nặng bởi các lực lượng thiện chiến của Việt Nam, nhưng với sự hà hơi của Trung Quốc trong nỗ lực làm suy yếu Việt Nam, Ponpot không từ bỏ dã tâm chiến tranh. Ngày 23/12/1978, quân đội chính quy Việt Nam tràn sang biên giới Campuchia, mở đầu cho việc giải phóng quốc gia này khỏi một trong những chế độ tàn bạo nhất lịch sử. Trong vòng 2 tuần, lính Việt Nam đánh đến thủ đô Phnompenh, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ diệt chủng Pon pot. Cùng với cuộc tiến quân của Việt Nam, người Campuchia sống sót thoát khỏi quá trình diệt chủng. Thế giới kinh hoàng khi chứng kiến sự xuất hiện của những cánh đồng chết trên khắp lãnh thổ Campuchia với hơn 1,7 triệu người bỏ mạng chỉ trong vài năm Pon pot nắm quyền.

Nhằm cứu nguy cho đàn em Pon Pot, tháng 02/1979 Trung Quốc xua 600 nghìn quân ồ ạt tiến đánh Việt Nam. Đối mặt với một đất nước thiện chiến vừa trải qua 30 năm chiến tranh giành độc lập kéo dài, Trung Quốc bị chặn lại ở biên giới phía Bắc và chịu tổn thất nặng. Sau ít ngày tiến công, Trung Quốc buộc phải tuyên bố đơn phương rút quân, thất bại cả trong mục đích xâm lược Việt Nam lẫn mục tiêu giải cứu cho Pon Pot. Tuy nhiên, Việt Nam phải gánh chịu một cuộc chiến tiêu hao kéo dài trong nhiều năm sau đó, ở cả biên giới phía Bắc và cuộc chiến tại Campuchia, nhằm giữ cho đất nước này thoát khỏi sự tái chiếm của Khmer đỏ.

Bước sang năm 2015, khi chính sách xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông chịu sự phản đối quyết liệt của các nước trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam, lá bài cũ Campuchia được Trung Quốc vận dụng lại trong một câu chuyện mới. Bằng các khoản viện trợ và đầu tư hậu hĩnh, Trung Quốc từng bước nắn được chính sách ngoại giao Campuchia theo hướng có lợi cho mình. Là một nước không có tranh chấp ở Biển Đông, nhưng Campuchia nhiều lần có những tuyên bố nghiêng về đòi hỏi của Trung Quốc. Tháng 7/2015, gần như cùng thời điểm Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm chính thức Hoa Kỳ, hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama trong một cuộc gặp có tính lịch sử, có một vụ xung đột nhỏ nổ ra ở biên giới Việt Nam - Campuchia, một sự kiện rõ ràng không phải là tình cờ khi nhìn vào các bài học thực tiễn và lịch sử. Sau sự kiện đó ít ngày, 23 viên tướng Campuchia đồng loạt viếng thăm Trung Quốc, một sự kiện chưa có tiền lệ, gợi lên nhiều ký ức về câu chuyện năm 1978. Có thể nói, cùng với chính sách đối ngoại bảo vệ lãnh thổ ngày càng quyết đoán của Việt Nam, cùng với xu thế nhích lại không thể đảo ngược của quan hệ Việt Mỹ, lá bài Campuchia đang được Trung Quốc vận dụng lại trong chính sách kiểm soát và thôn tính khu vực của mình.

Dĩ nhiên người Campuchia không lạ gì dã tâm bành trướng của Trung Hoa, nhưng do không có biên giới giáp ranh với Trung Hoa, Campuchia cảm thấy an toàn tương đối và tận dụng lợi thế để gặt hái càng nhiều lợi ích từ Trung Quốc càng tốt. Chính sách này phù hợp với lợi ích quốc gia Campuchia, nhưng cũng có thể đẩy đất nước này vào vòng xoáy nguy hiểm. Thủ tướng Campuchia hiện nay, Hunsen, người đàn ông đã nắm quyền qua 3 thập kỷ, là một người từng được hậu thuẫn bởi Việt Nam. Tận mắt thấy Khmer đỏ bị quân đội Việt Nam đánh tan tác chỉ trong vòng 2 tuần, Hunsen và Campuchia hiểu cái giá của sự mạo hiểm nếu lặp lại sai lầm ngu suẩn của Pon pot. Trên thực tế, bất chấp các luận điệu ủng hộ (dù không quá công khai) tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, Campuchia luôn cố gắng duy trì quan hệ thân thiện với Việt Nam. Giữa Campuchia và Thái Lan từng có đụng độ chính thức tại biên giới khiến nhiều lính hai bên thiệt mạng, nhưng ở phần biên giới giáp ranh Việt Nam, hai nước đã ký kết nhiều hiệp định phân giới chính thức vào các năm 1983, 1985 và 2005 dựa trên nền tảng đường biên giới được hoạch định theo bản đồ Bonne được xác lập giữa ranh giới Nam kỳ, Trung kỳ và Campuchia trong quá khứ. Trên thực tế hai nước đã hoàn tất phân định 78% tổng chiều dài biên giới. Phần mốc giới còn lại vẫn đang được xúc tiến trong sự nỗ lực của cả hai bên.

Lá bài Campuchia đang được Trung Quốc tìm cách vận dụng lại trong một câu chuyện mới, nhưng vấn đề là Campuchia ngày nay, sau các bài học quá khứ và lịch sử, vẫn còn chưa quên 4 năm cai trị của Ponpot và hàng chục nghìn cố vấn Trung Hoa với cái chết của 26% dân số. Dù tình cảm yêu ghét đan xen, nhưng người Campuchia không quên thực tế chính Việt Nam đã cứu dân tộc họ thoát khỏi sự diệt chủng, và càng không quên thực tế về bước chiến thần tốc của quân đội Việt Nam, khi giải phóng hầu hết lãnh thổ Campuchia chỉ trong có vài tuần. Do đó, có thể nói lá bài Campuchia trong tay Trung Quốc ngày nay không có sức nặng như thời Ponpot.

Là một quốc gia đã thoát khỏi nạn diệt chủng và hòa nhập thế giới văn minh, Campuchia có những chính sách phục vụ lợi ích quốc gia của riêng mình. Một trong những lợi ích mang tính chiến lược của họ, là quan hệ hòa bình hợp tác với Việt Nam. Lính campuchia có thể chạm súng với lính Thái Lan, nhưng điều tương tự chưa bao giờ diễn ra ở phần biên giới chưa phân định Việt Cam. Người Campuchia hiểu việc xung đột với Việt Nam có thể dẫn đến hậu quả gì. Tuy nhiên, rõ ràng Campuchia không nề hà gì khi nghiêng về Trung Quốc ở Biển Đông, nơi họ chẳng có mảy may lợi ích, nhưng đổi lại có thể là các khoản đầu tư và viện trợ hậu hĩ từ Trung Quốc. Đây là một chính sách phù hợp với lợi ích quốc gia của Campuchia, dù nó khiến Việt Nam, philipin, malaysia và các quốc gia đang có mâu thuẫn với Trung Quốc ở Biển Đông không mấy dễ chịu.

Nhận thức rõ vấn đề này, có thể giúp Việt Nam tỉnh táo đánh giá tình hình và đặt lên bàn cân một cách chính xác chính sách đối ngoại của Campuchia trong quan hệ tay ba Việt - Trung - Cam. Chúng ta cần chấp nhận thực tế Campuchia cũng đang chơi bài theo cách riêng của mình để phục vụ lợi ích quốc gia của họ, nhưng đồng thời cũng phải thừa khôn ngoan để nhận định rằng bất kể Trung Quốc xúi giục ở mức nào, Campuchia cũng sẽ không dại dột gây căng thẳng biên giới với Việt nam, bởi họ có đủ bài học quá khứ và lịch sử.

Lá bài Campuchia, do đó có thể khiến Việt nam khó chịu đôi chút ở Biển Đông, nhưng cũng không làm thay đổi được thực tế vấn đề, bởi mọi tiêu chí về luật pháp quốc tế đều rất rõ ràng. Ngược lại, chính Campuchia sẽ phải định hình chính sách của mình, bởi mọi sự dịch chuyển lại gần quỹ đạo Trung Quốc, sẽ khiến họ bị kéo xa ra khỏi Asean và phần còn lại của thế giới văn minh. Campuchia cũng nhiều lần bày tỏ nguyện vọng tham gia TPP, nhưng danh sách 12 quốc gia đang đàm phán hiệp ước không có họ, và chắc hẳn cũng sẽ không có trong tương lai gần. Dù bài học Ponpot cũng đã lùi xa, nhưng thực trạng bi bét của các quốc gia nằm trong quỹ đạo Trung Hoa cũng là một thực tế mà người Cam không mấy lạ lùng. Ngay cả Myanmar, sau nhiều chục năm lệ thuộc chặt chẽ Trung Hoa, cũng đã nỗ lực tìm mọi cách thoát ra và đất nước này chỉ khởi sắc kể từ chính sách thoát Trung của Thanswe. Đó là một tấm gương rất gần gũi cho mọi quốc gia trong khu vực.

Năm 2015, Việt Nam đang bước vào một quỹ đạo phát triển mới với nhiều hứa hẹn và cả về những triển vọng an ninh, với sự hợp tác của nhiều quốc gia lớn trên thế giới. Triển vọng của Việt Nam khi hòa nhập với thế giới văn minh, chắc chắn cũng là điều mà người Campuchia mong muốn. Trung Quốc do đó chắc chắn sẽ thất bại nếu muốn dùng Campuchia kiềm chế Việt Nam như cách họ đã từng làm với chế độ Ponpot.

Nguồn: Lão Thợ Cạo

Thứ Năm, 21 tháng 5, 2015

Singapore cảnh báo biển Đông là "Một tai nạn sắp xảy ra"

Singapore cảnh báo Biển Đông là 'một tai nạn sắp xảy ra'


Bộ trưởng Quốc phòng Singapore kêu gọi ASEAN và Trung Quốc hãy ‘cấp tốc hoàn tất’ một hiệp định nhằm tháo ngòi cho các căng thẳng đang leo thang ở Biển Đông.

Báo The Straits Times của Singapore trích lời ông Ng Eng Hen đề nghị Trung Quốc và các nước tranh giành chủ quyền ở Biển Đông nên ký một thoả thuận có tính ràng buộc pháp lý, cấm sử dụng sức mạnh quân sự trong các cuộc tranh chấp có nguy cơ bùng nổ.

Ông Ng nói làm như vậy sẽ giảm bớt những tính toán sai lầm ngoài biển, và cho phép tất cả mọi bên giải quyết các cuộc tranh chấp một cách hoà bình, dựa trên phép hành xử thông thường và khuôn khổ pháp lý.

Tiến sĩ Ng đưa ra lời cảnh báo đó trước một cử toạ gồm 23 lãnh đạo hải quân hàng đầu đến từ khắp nơi trên thế giới, để tham dự cuộc Triển lãm và Hội nghị Phòng vệ Biển lần thứ 10 tại Trung tâm Triển lãm Changi.

Theo lời Bộ trưởng Quốc phòng Singapore, trong tư cách một nước không dính líu tới cuộc tranh giành chủ quyền ở Biển Đông, Singapore không về phe nào trong các cuộc tranh chấp biển đảo ở đây, nhưng Singapore quan tâm về nguy cơ xảy ra các biến cố trên biển, thậm chí nguy cơ xảy ra xung đột cũng đang tăng cao.

Tiến sĩ Ng nói các cuộc tranh chấp lãnh thổ này nằm trong số những thách thức về hàng hải có tiềm năng làm gián đoạn các tuyến hàng hải thương mại trong khu vực này của thế giới, tác động tới Singapore và nền kinh tế toàn cầu.

Bản tin của Bloomberg trích lời Chuẩn Đô Đốc Lai Chung Han của Singapore, đề nghị một khung sườn khu vực để quản lý các hoạt động tàu ngầm trong vùng.

Ông nói các nước trong khu vực có thể khởi sự bằng cách trao đổi thông tin về những giàn khoan dầu, và lịch trình đi lại của các tàu chở hàng lớn. Ông Lai nói ASEAN có thể dựa vào kinh nghiệm của NATO, thiết lập Văn phòng Liên lạc Quốc tế để Tàu ngầm có đường thoát và giải cứu trong các trường hợp khẩn cấp.

Ông Lai nói với số lượng tàu ngầm ngày càng nhiều trong khu vực, có thể nói Biển Đông là 'một tai nạn đang sắp xảy ra'.

4 nước hội viên ASEAN, là Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei, cùng với Trung Quốc và Đài Loan, là những nước có tuyên bố chủ quyền từng phần hoặc toàn phần ở Biển Đông.

Nguồn: The Straits Times, Bloomberg

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Lê Ngọc Thống - Tình thế Biển Đông khi Mỹ can thiệp xung đột

Dư luận đang rất nóng khi hành động của Mỹ có thể tạo ra một cuộc xung đột Mỹ-Trung Quốc trên Biển Đông.


Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với khoảng 90% Biển Đông và đang thực thi tuyên bố bằng cách xây dựng trái phép một chuỗi đảo nhân tạo trên các bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa, bất chấp sự phản đối của Việt Nam và các nước trong khu vực. Trung Quốc còn ngang nhiên tuyên bố việc cải tạo là để phục vụ mục đích dân sự và "đáp ứng nhu cầu phòng thủ quân sự" của Trung Quốc. Trung Quốc cũng cho rằng "có quyền lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ)" trên Biển Đông nếu muốn.

Trước tình thế đó Mỹ buộc phải “thay đổi tư thế quân sự”, dự kiến điều hải quân và không quân đến Biển Đông để bảo vệ an toàn hàng không, hàng hải. Trung Quốc phản đối quyết liệt, đặc biệt là các “hỏa lực mồm” tung ra những tuyên bố cứng rắn…

Dư luận đang rất nóng khi hành động của Mỹ có thể tạo ra một cuộc xung đột Mỹ-Trung Quốc trên Biển Đông.

Xung đột quân sự Mỹ-Trung trên Biển Đông có xảy ra không?

Xảy ra hay không? Xảy ra cách nào? Muốn đánh giá chính xác hãy nhìn nhận sự việc dưới góc nhìn kinh tế và quân sự.

Trước hết về kinh tế. Cả hai, Trung Quốc và Mỹ đều có sự liên quan chặt chẽ và có quy mô lớn với nhau. Hiện tại Trung Quốc đã vượt Nhật Bản là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, 1.261 tỷ đô la, trong khi của Nhật Bản là 1.227 tỷ đô la, tính đến 3/2015.

Có một câu ngạn ngữ xưa: “Nếu ngân hàng cho bạn vay một ngàn đô la, ngân hàng là ông chủ của bạn. Nhưng nếu ngân hàng cho bạn vay một triệu đô la, bạn sẽ là ông chủ của ngân hàng” (If the bank lends you a thousand dollars, the bank owns you. But if the bank lends you a million dollars, you own the bank).

Nên nhớ rằng, chính phủ Mỹ khi phát hành trái phiếu không phải lấy tiền chỉ để chi dụng cho các nhu cầu nội địa, mà dành đến 60% cho đầu tư ở nước ngoài. Vì thế các nhà doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Trung Quốc không cần phải mang tiền từ Mỹ vào Trung Quốc mà lấy ngay tiền của Trung Quốc qua các tác vụ tài chính từ khoản Trung Quốc cho Mỹ vay qua việc mua trái phiếu kho bạc Mỹ. Số tiền này mang lại lợi nhuận lớn cho các nhà tư bản Mỹ, đặc biệt là từ thị trường Trung Quốc tiềm tàng.

Ví dụ Apple lấy tiền của Trung Quốc, tận dụng nhân công rẻ mạt của Trung Quốc, sản xuất ra một cái iPad cứ cho là 100 đô la chẳng hạn. Sản phẩm được xuất qua Mỹ và nhiều nước khác, bán với giá 500 đô la. Tiền lãi chảy hết vào túi Mỹ. Trung Quốc nghèo hơn, cho Mỹ giàu hơn vay tiền, còn Mỹ kiếm lợi ngay trên lưng kẻ cho vay, vậy, ai khôn hơn ai?

Đây là chưa nói tới việc kẻ đi vay lại chính là kẻ in ra đồng tiền đó. Chỉ cần nó phá giá một tý thôi, giá trị trái phiếu có thể mất đi vài trăm triệu đô la, nếu không nói đến vài tỷ, trong chốc lát. Điều này trong thực tế đã xảy ra…

Năm 1985 Mỹ đã buộc Nhật phải ký vào Plaza Accord để đồng yen lên giá hơn 50% so với đồng USD trong hai năm sau đó. Điều này tương đương với tất cả các khoản đầu tư trước đây của Nhật vào Mỹ bị mất giá hơn một nửa, cũng có nghĩa là Mỹ đã “bóc lột” Nhật một cách trắng trợn bằng cách “quịt” 50% số nợ với Nhật.

Hơn 30 năm sau, Trung Quốc đã thế chân Nhật trở thành “chủ nợ” lớn nhất của Mỹ. Có điều những nỗ lực của Mỹ trong suốt giai đoạn 2000-2006 không làm Trung Quốc nhượng bộ và đồng tiền chỉ được thả lỏng một phần và cho lên giá từ từ so với USD trong những năm gần đây thôi thì cũng gần như bổ sung toàn bộ thâm hụt ngân sách của Mỹ.

Hiện tại dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã hơn 2 ngàn tỷ USD. Thử tưởng tượng nếu Mỹ thành công trong việc làm USD mất giá khoảng 50% so với đồng yuan như đã làm với Nhật năm 1985, số tiền Trung Quốc bị “quịt” sẽ “kha khá”.

Vậy tại sao Trung Quốc không chuyển dự trữ ngoại tệ của mình sang các đồng tiền khác hay vàng? Hay đơn giản hơn là ngừng không tăng dự trữ ngoại tệ nữa vì đã quá đủ để đảm bảo an toàn cho cán cân thanh toán?

Trung Quốc rất muốn và đang cố gắng trong thời gian qua với các nước như Nga, BRICS…để làm điều này, thậm chí còn thành lập ngân hàng riêng với số vốn hơn 100 tỷ USD để cạnh tranh với IMF, tuy nhiên, thoát Mỹ, không muốn là “chủ nợ” của Mỹ thì còn lâu lắm khi mà nền kinh tế đang quá phụ thuộc và Mỹ. Trung Quốc vẫn phải là chủ nợ của Mỹ, vẫn phải mua trái phiếu của Mỹ nếu phát hành.

Cái lợi mà Trung Quốc được trong ván bài kinh tế này không phải là hơn 2 ngàn tỷ USD dự trữ ngoại tệ dù Trung Quốc biết sẽ mất một phần trong tương lai, sẽ bị quịt trong tương lai… mà là vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc thông qua con đường xuất khẩu, trong đó, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, quan trọng nhất của Trung Quốc. Đây là điều đặc biệt cần thiết để Trung Quốc giữ xã hội ổn định và là phương tiện để đạt được các mục tiêu chính trị khác.

Vì vậy, chừng nào Mỹ không còn là thị trường xuất khẩu quan trọng và lớn nhất của Trung Quốc, không còn là “phao cứu sinh” bảo đảm công việc làm cho hàng chục triệu, nếu không nói là hàng trăm triệu người lao động Trung Quốc…thì Trung Quốc sẽ ngừng mua trái phiếu do Mỹ phát hành, ngừng dự trữ ngoại tệ bằng dollars.

Nhưng, hiện tại thì không thể vì chỉ cần một biến động lớn trên thị trường lao động một tỷ rưỡi dân sẽ là một thảm họa cho ổn định xã hội, điều mà các nhà lãnh đạo Bắc Kinh không bao giờ muốn xảy ra, bằng mọi giá.


Vậy, Trung Quốc có muốn xung đột với Mỹ không? Đương nhiên không. Cn Mỹ có muốn xung đột với Trung Quốc không? Để làm gì khi “con gà đang đẻ ra trứng vàng”? Đương nhiên là không rồi.


Về góc nhìn quân sự. Về tình thế, Mỹ xuất hiện quân sự trên Biển Đông khác với xuất hiện trên biển Hoa Đông. Trên Hoa Đông là để bảo vệ Senkaku cho nên, nếu bị Trung Quốc tấn công, thì Mỹ lập tức đáp trả và xung đột quân sự sẽ xảy ra. Mỹ từng sử dụng quân đội để thách thức các tuyên bố chủ quyền không có cơ sở của Trung Quốc. Đơn cử như tháng 11/2013, Mỹ đã điều 2 chiếc B-52 bay trên các quần đảo mà Trung Quốc đang tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản ở biển Hoa Đông. Động thái này nhằm thách thức với vùng nhận dạng phòng không mà Bắc Kinh tự ý thiết lập ra trong khu vực.

Nhưng trên Biển Đông, nếu Trung Quốc chiếm đảo hoặc cải tạo các bãi đá Trường Sa của Việt Nam thì Mỹ không có trách nhiệm, Mỹ chỉ bảo vệ tự do, an toàn hàng hải, hàng không và chỉ đối đầu hay xung đột với Trung Quốc khi Trung Quốc phong tỏa, ngăn chặn hàng hải, hàng không (Trung Quốc chưa có gan làm chuyện này như lập ADIZ trên Biển Đông).

Do đó, xung đột trên Biển Đông chỉ có thể bắt đầu bởi các nước tranh chấp chủ quyền.

Về tình huống, Mỹ cho tàu chiến, máy bay theo dõi Trung Quốc ngoài vùng 12 hải lý (vì Mỹ không muốn căng thẳng) thì tình huống chưa đến mức gây nên sự “cướp cò”, nói cách khác là cả 2 đang ở nấc thang căng thẳng dưới cùng khi Mỹ phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên toàn bộ Biển Đông

Về lực lượng, Mỹ mạnh gấp nhiều lần Trung Quốc trên Biển Đông thì Trung Quốc sẽ không bao giờ dám động thủ. Đó là cách của họ mà chúng ta đã chứng kiến trong các lần gọi là khủng hoảng eo biển Đài Loan.

Như vậy, tình thế xung đột là không, tình huống cũng không do Mỹ không muốn, về lực lượng cũng không do Trung Quốc không dám thì làm gì có chuyện Trung Quốc-Mỹ đánh nhau. Đánh nhau bằng mồm thì có và chưa biết chừng “2 con voi này lại đang làm tình với nhau” trên Biển Đông.

Lê Ngọc Thống
(Đất Việt)

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

Nấc thang cuối của Trung Quốc trên Biển Đông

(Bình luận quân sự) - Trung Quốc muốn là một chuyện, còn ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng lại là chuyện khác.


Trung Quốc đang đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trái phép trên đảo Huy Gơ của Việt Nam

Khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã chứng kiến đủ các chiêu trò của Trung Quốc khi tranh chấp và chiếm đoạt chủ quyền trên biển của các quốc gia khác. Nhưng tựu trung lại, chúng ta thấy Trung Quốc có 3 bước cơ bản để thực hiện chiến lược chiếm Biển Đông.

Một là xác định khu vực chiếm đoạt bằng một loạt kế sách từ biến không thành có, từ khu vực không có tranh chấp biến thành khu vực có tranh chấp và cuối cùng là đánh dấu khu vực bằng bản đồ do mình tự vẽ ra từ tham vọng.

Sau một thời gian triển khai với nhiều mưu mô chước quỷ, Trung Quốc đã trắng trợn tuyên bố cái “bản đồ chín khúc” mà theo đó toàn bộ Biển Đông thuộc Trung Quốc.

Hai là khẳng định chủ quyền bằng biện pháp phi quân sự như tuyên bố khu vực cấm đánh bắt, dùng tàu cá được bảo kê của các tàu chấp pháp tràn vào vùng biển nước khác ngang nhiên đánh bắt, hạ đặt giàn khoan vào sâu trong thềm lục địa của nước khác…

Tất cả 2 bước trên đều dựa trên một nền tảng là nước lớn cậy mạnh nên Trung Quốc tỏ ra rất hung hăng, ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế.

Khi trên Biển Đông còn tồn tại quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam thì giải quyết vấn đề bằng phi quân sự của Trung Quốc với một Việt Nam kiên cường, có truyền thống chống xâm lược là không thể đạt được.

Chính vì thế Trung Quốc sẽ buộc phải thục hiện bước thứ ba: Gây xung độtquân sự hạn chế hay thực hiện một cuộc chiến tranh với quy mô hạn chế để thôn tính hoàn toàn Biển Đông.

Chiến tranh hạn chế kiểu Trung Quốc

Không phải bây giờ mà ngay từ đầu triển khai chiến lược biến Biển Đông thành “ao nhà” tư tưởng, quan điểm này của giới cầm quyền Trung Quốc đã biểu hiện rõ qua những tuyên bố của các học giả, tướng tá diều hâu và cơ quan ngôn luận của Trung Quốc như Hoàn Cầu thời báo…

Họ cho rằng “thế năng chiến tranh trên Biển Đông là rất lớn nên đánh một trận nhỏ để không có trận lớn” hay "Trỗi dậy hòa bình không mâu thuẫn với sử dụng vũ lực, bảo vệ chủ quyền có thể nổ súng"…Và trong vụ hạ đặt giàn khoan phi pháp vừa qua, Trung Quốc đã cho tàu pháo áp sát tàu chấp pháp Việt Nam với độ sẵn sàng chiến đấu rất cao, nghĩa là có thể bắn vào tàu Việt Nam bất cứ lúc nào.

Như vậy có thể thấy rằng, vấn đề xung đột quân sự trên Biển Đông không phải là có xảy ra hay không mà trước sự hung hăng, ngang ngược của Trung Quốc ngày càng tăng thì vấn đề chỉ là khi nào xảy ra xung đột mà thôi.

"Chiến tranh hạn chế" thực chất là một cuộc tấn công phủ đầu bằng quân sự chớp nhoáng đánh chiếm một mục tiêu mà buộc đối phương lựa chọn khắc nghiệt “mất nhiều hay mất ít” trước khi có hành động đánh trả.

Chiến tranh hạn chế được thực hiện khi Trung Quốc đã có khả năng gây áp lực rất lớn về kinh tế, chính trị, lên đối thủ, đồng thời có sức mạnh răn đe quân sự, mở rộng chiến tranh, là 2 đầu vào chính cho đối phương giải bài toán “mất nhiều hay mất ít”.

Đối phương chấp nhận sự “mất ít” là Trung Quốc thắng lợi và ngược lại thì Trung Quốc sẽ bị rất nhiều rủi ro, sa lầy hoặc trả giá đắt cho hành động quân sự gây ra. Vì thế, đương nhiên, khi hành động, Trung Quốc phải tính toán kỹ sức mạnh và đặc biệt là ý chí quyết tâm của đối thủ trong bảo vệ toàn vẹn chủ quyền…để ra tay.

Với Việt Nam, liệu Trung Quốc có tiến hành một cuộc chiến tranh hạn chế hay không?

Trên Biển Đông, mục tiêu chủ yếu và duy nhất cho Trung Quốc thực hiện học thuyết chiến tranh hạn chế này chính là các đảo trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Thực tế là ngày 14/3/1988, Trung Quốc dùng 12 tàu chiến bất ngờ tấn công vào 3 tàu vận tải của Hải quân Việt Nam. Với cuộc đối đầu không cân sức này, Trung Quốc đã chiếm được đảo Gạc Ma và một số đảo khác của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa.

Có thể nói, đây là một tiền lệ rất xấu cho các nước trong khu vực nhưng là một kinh nghiệm bổ ích nhất cho Trung Quốc trong học thuyết chiến tranh hạn chế mà Trung Quốc đang hung hăng đe dọa áp dụng với các nước khác trong đó có Việt Nam.

Quả thật lúc đó Việt Nam đang ở trong một tình cảnh cực kỳ khó khăn mà nếu như không phải là người dân Việt Nam thì sự chịu đựng trong thế ngặt nghèo đó là không thể. “Vòng tròn bất tử Gạc Ma” còn đó, dân tộc Việt Nam không bao giờ quên.

Giờ đây, nếu Trung Quốc dùng vũ lực tấn công đánh chiếm một số đảo trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam thì có 2 sự lựa chọn xảy ra.


Một là Việt Nam chấp nhận “mất ít” mà không muốn chiến tranh vì phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc và sự đáp trả của Việt Nam là đòi lại bằng “biện pháp hòa bình”.

Đây là lựa chọn không thể xảy ra vì thế và lực của Việt Nam đã khác. Mất đảo là sự mất mát quá lớn đến chủ quyền thiêng liêng của quốc gia. Nếu Việt Nam cứ bám víu vào cái hữu nghị viễn vông, cái nền hòa bình lệ thuộc, chọn sự “mất ít” có nghĩa là “mất dần” thì chắc chắn không một người Việt Nam nào chấp nhận, đặc biệt trong điều kiện thế và lực của chúng ta hiện nay đã khác xa năm 1988.

Vì vậy, Việt Nam chỉ có lựa chọn cách thứ hai là, thà hy sinh tất cả chứ nhất định không để biển đảo rơi vào tay Trung Quốc xâm lược. “Không đánh đổi chủ quyền bằng thứ hữu nghĩ viễn vông hay nền hòa bình lệ thuộc” là tuyên bố của lãnh đạo Việt Nam làm nức lòng dân tộc, được toàn dân nhất trí, ủng hộ.

Liệu Trung Quốc dùng “chiến tranh hạn chế” để buộc Việt Nam chọn sự “mất ít” như trước đây hay không thì qua vụ hạ đặt phi pháp giàn khoan trong thềm lục địa của Việt Nam, Trung Quốc có thể nhận thức được vấn đề, song, cậy mạnh, chủ quan coi thường đối thủ là bản chất của kẻ xâm lược, cho nên, chúng ta không bao giờ nghĩ rằng Trung Quốc sẽ không gây xung đột quân sự đánh chiếm đảo của Việt Nam.

Hàng loạt cuộc tập trận đánh chiếm đảo trên Biển Đông (đảo nào? nếu như không phải là Trường Sa?) không phải là để chơi. Trung Quốc sẽ hành động bất cứ khi nào mà Việt Nam mất cảnh giác hoặc khi “trái tim để lầm chỗ trên đầu”.

Một trong những bài tập trận của Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc: Đổ bộ đánh chiếm đảo bằng trực thăng vào tháng 1/2014

Tại sao Trung Quốc muốn chiến tranh hạn chế?

Nếu Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm đảo của Việt Nam thì Việt Nam kiên quyết tự vệ, bảo vệ bằng được chủ quyền mà không chịu khuất phục. Tình thế đó buộc Trung Quốc không thể đánh nhanh, thắng nhanh và không hạn chế được phạm vi khu vực xảy ra tác chiến. Điều này có nghĩa là không có chuyện “đánh một trận nhỏ để không có trận lớn” như họ tưởng và tất nhiên, chiến tranh hạn chế bị phá sản.

Một cuộc chiến tranh không kiểm soát trên Biển Đông sẽ có 3 điều bất lợi xảy ra cho Trung Quốc.

Một là, khuất phục được cả một dân tộc Việt đồng lòng là điều không thể cho bất cứ kẻ thù nào dù hung hãn đến đâu, cho nên, chiến tranh sẽ kéo dài là vô cùng nguy hiểm cho sự ổn định chính trị của Trung Quốc.

Hai là, dòng hàng hóa, năng lượng khổng lồ qua Biển Đông sẽ gián đọan hoặc bị cắt đứt, Trung Quốc buộc phải phân tán lực lượng để bảo vệ hoặc chấp nhận nền kinh tế bị thảm họa là 2 tử huyệt mà Trung Quốc không có và chưa đủ khả năng chống đỡ.

Ba là, sự gián đoạn hàng hải thương mại trên Biển Đông khiến Nhật Bản, Mỹ, Úc…phải ra tay can thiệp để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình sẽ tạo ra cho Việt Nam có nhiều đồng minh tự nhiên.

Đây là 3 lý do quyết định khiến Trung Quốc không muốn hay không dám tiến hành một cuộc chiến tranh lớn trên Biển Đông với Việt Nam.

Đánh chiếm đảo trên Biển Đông bằng một cuộc “chiến tranh hạn chế” hay “xung đột quân sự hạn chế” thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược, nó có 2 nội dung cơ bản là đánh chiếm và bảo vệ thành quả, trong đó bảo vệ thành quả có ý nghĩa quyết định.

Các đảo trên Biển Đông và ngay quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư thì khi tác chiến, bên phòng thủ không có lợi thế bằng bên tấn công. Bởi vậy, bất ngờ dùng vũ lực đánh chiếm được một hoặc hai đảo…trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam, đồng thời ngăn ngừa hay làm triệt tiêu ý chí phản công của Việt Nam bằng một loạt đối sách về kinh tế, ngoại giao, chính trị…là mục đích, yêu cầu, của cuộc “chiến tranh hạn chế” kiểu Trung Quốc. Đây là bước leo thang cuối cùng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Đương nhiên, Trung Quốc muốn là một chuyện, còn ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng lại là chuyện khác.

Lê Ngọc Thống
Báo Đất Việt

Trung Quốc đang xây cất rất nhanh các công trình phi pháp trên đảo Huy Gơ và Gạc Ma của Việt Nam

Khoai@


Từ Trường Sa, phóng viên Viễn Sự của Báo Tuổi Trẻ và phóng viên Mai Thanh Hải của báo Thanh Niên cho thấy những hình ảnh mới nhất về việc Trung Quốc đang xây cất trái phép rất nhanh các công trình trên đảo Huy Gơ (Bãi Tư Nghĩa) và đảo Gạc Ma của Việt Nam.

1. Đảo Huy Gơ là một đảo chìm thuộc cụm đảo Sinh Tồn, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép từ ngày 28-2-1988.

Đây là những hình ảnh phóng viên Tuổi Trẻ vừa chụp từ đảo Huy Gơ:


Theo PV Viễn Sự, từ một đảo chìm ban đầu, Trung Quốc đã san lấp đảo Huy Gơ thành một đảo nổi hoàn toàn với diện tích khoảng 10 ha, có hình dáng chữ L.




Cách đây một năm, đảo Huy Gơ chỉ có một căn nhà 2 tầng thì nay căn nhà đó đã được thay bằng một khối nhà cao tầng đồ sộ. Quan sát từ hình ảnh PV chụp được, ngoài khối nhà 9 tầng đang dần hoàn thiện, trên đảo Huy Gơ còn có hai khối nhà thấp hơn, cao từ 4 – 5 tầng và một tháp quan sát phía trước khối nhà 9 tầng cũng có độ cao tương tự, được xây theo hình trụ. Phía trước các dãy nhà này Trung Quốc đã cho bứng các cây lâu năm, chủ yếu là cây dừa từ đất liền ra để trồng. 

Trên đảo Huy Gơ lúc này, công trường xây dựng vẫn rất tấp nập, gồm nhiều cần cẩu lớn, nhà máy trộn bê tông và đậu cạnh đảo là hai tàu vận tải lớn đang vận chuyển cát, đá san hô hút được từ vùng biển lân cận để bồi đắp đảo. Ngoài việc bồi đắp và xây dựng khối nhà 9 tầng, Trung Quốc cũng cho nạo vét một luồng dẫn vào cầu cảng của đảo Huy Gơ, dài khoảng 900m với độ sâu trên 10m để đón các tàu vài ngàn tấn vào cảng.

2. Đá Gạc Ma là rạn san hô nằm trong cụm Sinh Tồn thuộc Quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa, Việt Nam). Bãi đá này nằm cách đá Cô Lin khoảng 3,5 hải lý về phía đông nam và bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép từ ngày 14.3.1988, sau khi bắn cháy, chìm 3 tàu vận tải quân sự và giết hại 64 cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam.


Toàn cảnh bãi Gạc Ma với các công trình do Trung Quốc xây dựng trái phép

Ngay sau khi chiếm đóng trái phép bãi đá Gạc Ma, phía Trung Quốc xây dựng căn cứ gồm 3 kết cấu hình bát giác nằm trên cọc gỗ. Đến đầu năm 1989, họ đã hoàn thiện lô cốt xi măng cao 2 tầng và củng cố dần thành nhà bê tông 4 tầng với tường chắn sóng, tháp canh, các thiết bị thông tin liên lạc. Từ năm 2014, phía Trung Quốc tập trung tàu thuyền, phương tiện cơ giới hiện đại nạo vét san hô, chuyên chở vật liệu từ bờ, tiến hành đào đắp để xây nhà công trình, đường sá, bến tàu và các hạng mục kiên cố khác tại Gạc Ma.

Thời kỳ cao điểm, bên cạnh hàng chục tàu vận tải chuyên chở máy móc thiết bị - vật liệu xây dựng, phía Trung Quốc còn huy động các tàu cá bọc sắt làm nhiệm vụ bảo vệ bãi đá Gạc Ma và nhất là 2 tàu hộ vệ tên lửa mang số hiệu 528, 535 để ứng trực, xua đuổi các tàu thuyền khác đi gần bãi đá.


Hiện tại, phía Trung Quốc đã cơ bản hoàn tất các hạng mục xây dựng cơ bản, đơn cử: tòa nhà trung tâm (Sở Chỉ huy) cao 7 tầng có đường dẫn cho xe cơ giới lên thẳng tầng 2, phía trên tầng 7 có thêm đài quan sát cao 3 tầng; 2 đơn nguyên hình tháp cao 6 - 7 tầng, giống đài kiểm soát không lưu và hải đăng; gần 10 đơn nguyên còn lại đều 1-2 tầng, xây kiên cố theo kiểu doanh trại quân đội; tòa nhà bê tông 4 tầng mà Trung Quốc xây dựng từ trước đó, vẫn được giữ lại với các khẩu pháo phòng không mở bạt, sẵn sàng khai hỏa...

 
Đơn nguyên bên phải tòa Trung tâm là căn cứ Trung Quốc xây từ trước

Tàu vận tải cỡ lớn của Trung Quốc cập bên cạnh tháp cao có thể là Đài kiểm soát không lưu

Tất cả công trình do Trung Quốc xây dựng trái phép trên bãi Gạc Ma đều được sơn màu trắng, nổi bật trên nền biển xanh và rất dễ nhận dạng khi cách xa hơn 10 hải lý.

Một số ngư dân Việt Nam chuyên đánh bắt thủy sản ở Trường Sa cho biết: Thời điểm này, chỉ còn 3-4 tàu vận tải ở lại bãi Gạc Ma cùng với một số tàu cá bọc sắt làm nhiệm vụ bảo vệ, số tàu vận tải và hộ vệ tên lửa thường trực, đã di chuyển sang bãi SuBi để tăng cường xây dựng...

Một số hình ảnh về các công trình xây dựng trái phép của Trung Quốc trên bãi đá Gạc Ma của Việt Nam, do Phóng viên Thanh Niên Online vừa thực hiện. 


Bìa phải là tàu cá bọc sắt làm nhiệm vụ bảo vệ, ngăn cản các tàu thuyền lại gần bãi Gạc Ma



Ngoài hai đảo trên, theo quan sát của PV, Trung Quốc cũng đang đẩy nhanh việc xây dựng tại các đảo Châu Viên, Ga Ven..

Khoai@ tổng hợp từ Net.