Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2014

CHỦ TỊCH TP KONTUM CÔNG KHAI XIN LỖI DÂN

Chủ tịch TP Kon Tum công khai xin lỗi công dân

(Tin tức thời sự) - Đền bù, giải phóng mặt bằng đối với đất và nhà chưa đúng theo quy định, làm thiệt thòi cho công dân, Chủ tịch TP Kon Tum đã công khai xin lỗi.

Chiều 3/5, ông Phan Văn Thế, Chủ tịch UBND TP.Kon Tum (tỉnh Kon Tum) cùng đại diện các ban, ngành địa phương đã làm việc và công khai xin lỗi ông Trương Minh Hòa (trú ở số 77 đường Trương Quang Trọng, P.Quyết Thắng, TP.Kon Tum).

Ông Phan Văn Thế, Chủ tịch UBND TP Kon Tum.

Trước đó, một số cơ quan của TP.Kon Tum đã tham mưu về việc đền bù, giải phóng mặt bằng đối với đất và nhà chưa đúng theo quy định hiện hành, dẫn đến thiệt thòi cho ông Hòa.

Cùng với việc xin lỗi, Chủ tịch UBND TP.Kon Tum còn trao cho ông Hòa quyết định về việc hủy bỏ văn bản mà trước đó UBND TP.Kon Tum đã trả lời về khiếu nại ông Hòa chưa đúng. “Mình sai thì xin lỗi thôi! Mình là người đứng đầu thì phải làm sao cho hợp lý, làm sao giữa chính quyền và người dân có tiếng nói chung”, ông Thế nói.

Trong thời gian gần đây, hàng loạt các tòa án tại các địa phương cũng đã công khai xin lỗi khi kết án oan. Ngày 29/4, tại hội trường UBND xã Đông Hưng (huyện Tiên Lãng, Hải Phòng), TAND TP Hải Phòng công khai xin lỗi ông Nguyễn Hồng Cầu (50 tuổi, trú xã Đông Hưng) vì bị tòa tuyên án tù oan 70 ngày về tội trộm cắp tài sản từ 17 năm trước.

Tại buổi công khai xin lỗi, ông Pham Đức Tuyên - Phó Chánh án TAND TP Hải Phòng thừa nhận việc kết án của TAND TP đối với ông Cầu là không đúng pháp luật, gây thiệt hại cho ông.

Trước mặt đại diện các cơ quan đoàn thể xã, ông Tuyên thay mặt TAND TP Hải Phòng gửi lời xin lỗi sâu sắc đến ông Cầu, đề nghị chính quyền, đoàn thể khôi phục danh dự cho ông.

Trước đó, ngày 4/4, ông Đào Vĩnh Tường - Chánh toà hình sự TAND TP.Hà Nội đã thay mặt TAND TP.Hà Nội công khai xin lỗi ông Phạm Đức Bình (58 tuổi, trú tại phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, TP.Hà Nội) tại UBND phường Lý Thái Tổ (Hoàn Kiếm, Hà Nội) trước sự chứng kiến của UBND phường Lý Thái Tổ (nơi ông Bình cư trú), đại diện cơ quan công an, viện kiểm sát, đại diện phía Cty cũ của ông Bình, của nhân dân khu vực cũng như các cơ quan thông tin đại chúng.

Theo đó, ông Bình thuộc trường hợp được bồi thường do bị kết án oan theo quy định tại Nghị quyết 388 năm 2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và được xem xét bồi thường oan sai theo luật định. Tuy nhiên, sau hơn 13 năm Tòa phúc thẩm tuyên bố ông Phạm Đức Bình vô tội và ra quyết định đình chỉ vụ án hình sự thì đến ngày 4/4, ông Bình mới được chính thức công khai xin lỗi.

Thảo My (Tổng hợp)

KINH HOÀNG: TAI NẠN TRÊN ĐƯỜNG CAO TỐC, BỐN CẢNH SÁT GIAO THÔNG TỬ VONG

Kinh hoàng: Tai nạn trên đường cao tốc, bốn cảnh sát giao thông tử vong

(PLO)- Một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng đã xảy ra vào ngày 3-5 làm 4 người tử vong và 1 người bị thương. Đáng chú ý, những nạn nhân trong vụ tai nạn này là những cảnh sát giao thông. 

Vụ việc xảy ra vào khoảng 13 giờ trên đường cao tốc Pháp Vân – Ninh Bình đoạn địa phận huyện Duy Tiên (tỉnh Hà Nam). 

Hiện trường vụ tai nạn do bạn đọc cung cấp 

Vào thời điểm trên, chiếc xe ô tô hiệu Toyota Rav4 (BKS 29A-002.85) có dán logo của lực lượng cảnh sát giao thông, đang lưu thông theo hướng Hà Nam – Hà Nội thì đã xảy ra va chạm với một chiếc xe ben đi cùng chiều. Chiếc Toyota đã đâm vào đuôi chiếc xe tải lớn làm phần đầu bị bẹp di rúm ró, kính vỡ nát. 

Năm người ngồi trên xe, 3 người tử vong tại chỗ, 2 người còn lại bị thương nặng nhưng sau đó một người đã tử vong trên đường đi cấp cứu. 

Theo thông tin, tất cả những người này đều là cán bộ, chiến sĩ Đội Cảnh sát Giao thông Dẫn đoàn (Phòng Cảnh sát Giao thông Công an Hà Nội). Đây là tổ công tác đi khảo sát tuyến đường dẫn đoàn, phục vụ đại biểu dự Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc – Vesak 2014 diễn ra sắp tới tại chùa Bái Đính (Ninh Bình). 

Hiện vụ việc đang được Công an tỉnh Hà Nam điều tra.

NGUYỄN DÂN

BỨC XÚC VÌ TÀI SẢN KẾCH XÙ CỦA QUAN CHỨC NGHỈ HƯU

Bức xúc vì tài sản kếch xù của quan chức nghỉ hưu

Quyết liệt phòng chống tham nhũng, tiêu cực; trừng trị nghiêm khắc tội phạm tham nhũng là kiến nghị chung của nhiều cử tri Q.Ba Đình (Hà Nội) với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại hội nghị tiếp xúc cử tri của đơn vị bầu cử số 1 diễn ra hôm qua 3.5.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện với cử tri trong giờ giải lao - Ảnh: CTV Dũng Anh

“Đương chức hay nghỉ hưu đều phải xử nghiêm”

Cử tri Nguyễn Ngọc Hạt phản ánh: Sự điều hành của Nhà nước thời gian vừa qua bên cạnh những kết quả đạt được còn không ít điều khiến dân bức xúc, trong đó nổi cộm là nạn tham nhũng mà nguyên nhân sâu xa là sự tha hóa, biến chất của không ít cán bộ đảng viên. Theo ông Hạt, nhân dân mong muốn Đảng và Nhà nước làm quyết liệt hơn phòng chống tham nhũng, tiêu cực, chống tham nhũng từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, không có vùng cấm nào. Đi liền với đó là đổi mới công tác cán bộ, có cơ chế đào thải dần những cán bộ công chức tha hóa, biến chất.

Cử tri Phan Đức Thuyên đề nghị Quốc hội cần tăng cường giám sát mạnh hơn nữa, nhất là công tác phòng chống tham nhũng vì vừa rồi, một số vụ án lớn về tham nhũng vẫn phải xử đi xử lại do thiếu chứng cứ.

Cử tri Phạm Quy đề nghị “cần phải làm nghiêm khắc để răn đe các trường hợp khác. Phải làm thật nghiêm, thật kiên quyết, bất kể là ai, đương chức hay nghỉ hưu đều phải xử nghiêm. Dư luận vừa rồi cũng rất bức xúc vì các tài sản kếch xù của các quan chức đã nghỉ hưu. Phải làm rõ, làm nghiêm, về hưu cũng phải xử. Vì không xử lý được những đối tượng này thì không thể lấy lại được lòng tin của dân”.

Việc không lộ thiên còn cong đến thế nào?

Cử tri Nguyễn Cao Đức cho rằng bên cạnh vấn nạn tham nhũng, quốc nạn lãng phí cũng đang là vấn đề nhức nhối nhưng ít ai đề cập đến. Ông Đức dẫn ví dụ về dự án đường sắt đô thị trên cao của Hà Nội, vừa rồi vì một vài vấn đề trục trặc mà “đội vốn” lên vài nghìn tỉ đồng. “Một Dương Chí Dũng tham ô chịu hình phạt tử hình, nhưng có cả 100 Dương Chí Dũng tham ô nữa thì số tiền bị mất có bằng số tiền dự án bị đội lên hàng nghìn tỉ đồng như thế không?”, ông Đức so sánh.

Không chỉ lo lãng phí, cử tri còn bức xúc trước tình trạng lạm quyền. Cử tri Trần Viết Hoàn dẫn chứng: Dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông (Hà Nội) phải điều chỉnh tới 9 hạng mục khiến vốn tăng thêm hơn 300 triệu USD, thế nhưng có vị khi được hỏi còn phát biểu là mới điều chỉnh một tí đã làm rùm beng lên; Đề án đổi mới sách giáo khoa 34.000 tỉ, sau khi bị dư luận phản ứng, thì lại giải thích bị “hiểu lầm”, và rằng số tiền đổi mới sách giáo khoa chỉ hơn 5.000 tỉ; Đường Trường Chinh bao đời nay vốn thẳng, nay bỗng dưng bị “uốn cong mềm mại”... “Việc này khiến người dân suy nghĩ con đường thẳng giữa thanh thiên bạch nhật còn bị uốn cong thì thử hỏi những việc không lộ thiên còn cong đến như thế nào?”, ông Hoàn bức xúc.

Chống tham nhũng, lãng phí: Đã và đang làm quyết liệt

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá các ý kiến, phản ánh của cử tri là hoàn toàn xác đáng. Cá nhân ông cũng như các ĐBQH của đơn vị bầu cử số 1 “xin nghiêm túc tiếp thu” để phản ánh, kiến nghị, góp ý với Quốc hội tại kỳ họp tới.

Liên quan đến các kiến nghị cụ thể của cử tri, Tổng bí thư trực tiếp đề cập đến 3 nội dung lớn, trong đó có vấn đề phòng chống tham nhũng (PCTN), lãng phí và lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội.

Ông khẳng định PCTN và lãng phí là vấn đề luôn được đề cập tới mỗi lần tiếp xúc cử tri. Lãng phí nhiều khi còn nguy hại hơn cả tham nhũng, có khi còn lớn hơn cả tham nhũng vì có những lãng phí không thể đo đếm được. “Vấn đề này vừa rồi T.Ư đã có chỉ đạo, ra nghị quyết, một loạt chỉ thị vừa rồi về chống lãng phí cũng đã được ban hành, như xuống địa phương phải thế nào, lễ hội tổ chức ra sao bảo đảm tiết kiệm”, Tổng bí thư thông tin.

Liên quan đến giải pháp PCTN, Tổng bí thư khẳng định đã và đang làm rất quyết liệt. Ông cho hay năm vừa qua đã xử một số vụ lớn rất tập trung, nhanh chóng, có những vụ mới khởi tố cuối 2012 thì năm 2013 đã đưa ra xử rồi. Riêng năm ngoái, Ban chỉ đạo T.Ư về PCTN chọn 8 vụ án điểm, đã xử 5 vụ. Năm nay chọn ra 6 vụ án trọng điểm và 2 vụ việc lớn về tham nhũng rồi giao các địa phương vài ba chục vụ để chọn một số vụ trọng điểm làm trước.

Trước câu hỏi cử tri đặt ra vì sao đang lấy phiếu tín nhiệm lại dừng, Tổng bí thư khẳng định chủ trương lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ lãnh đạo, quản lý ở Quốc hội, kể cả trong Đảng, MTTQ là thực hiện theo Nghị quyết T.Ư 4. “Càng thực hiện càng khẳng định chủ trương đó là đúng, nhưng có một số việc thấy qua thực tế cần phải rút kinh nghiệm, cần phải điều chỉnh cho phù hợp. Nên không phải không làm mà phải kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm, điều chỉnh. Cho nên, kỳ họp tới Quốc hội sẽ thảo luận, xem xét sửa đổi Nghị quyết 35 về việc lấy phiếu tín nhiệm”, Tổng bí thư lý giải.

Bảo Cầm/TN

KHAI THÁC BÔ XÍT ĐỂ PHÁT TRIỂN TÂY NGUYÊN?

Khai thác bô xít để phát triển Tây Nguyên?

VOV.VN -Nói đến khai thác khoáng sản là phải nói khai thác như thế nào, chứ không phải nói là: Thôi đừng khai thác nữa.

Tây Nguyên không nên chỉ dựa vào thế mạnh nông nghiệp để phát triển bền vững, mà cần có chính sách thích đáng để phát huy tiềm năng khoáng sản phong phú trên địa bàn.

Đây là ý kiến của lãnh đạo UBND tỉnh Lâm Đồng, đóng góp cho Chương trình Khoa học công nghệ phục vụ phát triển Tây Nguyên, đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, gọi tắt là Chương trình Tây Nguyên 3 - một chương trình khoa học trọng điểm cấp Nhà nước, triển khai từ năm 2011.

Theo ông Nguyễn Văn Yên - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, nguồn lực Nhà nước đầu tư cho Tây Nguyên hiện nay chỉ bằng 0,83% so với cả nước, nội lực của các tỉnh chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nên phát triển nhanh và bền vững là nhiệm vụ rất khó khăn.

Nghịch lý là khoáng sản, nguồn tài nguyên rất lớn của khu vực, lại không thể khai thác với quy mô hợp lý để phục vụ phát triển, do những lo ngại về nguy cơ xảy ra đối với xã hội và môi trường.

Ông Yên cho rằng, cần nhận thức đúng, mạnh dạn khai thác nguồn khoáng sản sẵn có của Tây Nguyên, tránh lãng phí nguồn lực cho phát triển.

Ông Yên nói: "Bây giờ, chỗ nào có bô xít là không trồng được một cây gì cả, nhưng bảo khai thác bô xít để tạo ra một ngành công nghiệp kim loại màu cho cả nước thì bao nhiêu nhà khoa học phản đối, cứ sợ nó đổ bùn đỏ. Mà hồ bùn đỏ ở đây khác với ở Hungary. Hồ ở Tây Nguyên nằm giữa thung lũng, xung quanh toàn là núi. Chỉ có khiêng núi đi chỗ khác thì bùn mới chảy ra ngoài. Mà bô xít nếu không khai thác, để dành 100 năm sau, nếu lỡ lúc đó người ta không sử dụng nhôm nữa thì coi như bô xít vứt đi chứ gì? Cho nên, nói đến vấn đề khai thác khoáng sản là phải nói khai thác như thế nào, chứ không phải nói là: Thôi đừng khai thác nữa”./.

PV/VOV-Tây Nguyên

Xuân Cung Họa

Triêu Nhan

Những nền văn hoá lớn của châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Tư, Arập đều có truyền thống văn học và nghệ thuật sắc tình. Truyền thống này cũng bao gồm cả thơ ca, tiểu thuyết cùng các loại cẩm nang ái tình được liệt vào hàng kinh sách đã ra đời rất sớm ở Ấn Độ và Trung Quốc. Chỉ có phương Tây là không có truyền thống văn học và nghệ thuật sắc tình, nó đã bị che giấu, không được công khai trong suốt lịch sử. Chẳng hạn, chỉ gần đây thôi, các nhà am tường nghệ thuật mới bắt đầu phát hiện ra các yếu tố sắc tình được khéo léo che đậy trong các tranh khắc kẽm của Rembrandt. Ngay cả ở nước Pháp được xem là tự do, nhưng mãi đến kỉ nguyên “Ánh sáng” vào thế kỉ 18, nghệ thuật sắc tình mới được quyền tồn tại.
Nghệ thuật sắc tình Trung Quốc trong văn chương và hội hoạ đã có truyền thống từ thời cổ đại hơn hai ngàn năm nay, về mặt thẩm mĩ và tính thâm thuý của nó đã phát triển và đạt đến cao điểm vào cuối đời Minh (đầu thế kỉ 17) đồng thời với sự hưng thịnh của những thành phố thương mại ở vùng Giang Nam từ thế kỉ thứ 10 về sau, khi Tô Châu, Hàng Châu, và Quảng Châu trở nên những thành phố sầm uất và lịch lãm bậc nhất thế giới. Đằng sau sự nguỵ trang như là những “chỉ dẫn” hay “cẩm nang” cho người trẻ vốn e thẹn và thiếu kinh nghiệm phòng the, nghệ thuật sắc tình Trung Quốc đi đã tìm cái đẹp trong mọi cách thể hiện. Đối với người nhập môn, nó cung cấp không chỉ sự kích thích mà còn là nguồn khoái cảm về thẩm mĩ. Ngày nay, thế giới phương Tây không chỉ ngưỡng mộ trước những phù điêu lừng danh của ngôi đền thiêng Khajuraho và cuốn Kama-Sutra(Dục lạc kinh) của Ấn Độ; cũng không chỉ với những mộc bản nổi tiếng của những danh hoạ ukiyo-e (phù thế hội hoạ) của Nhật Bản, mà cũng còn đối với thể loại tranh sắc tình của Trung Quốc là xuân cung hoạ 春宫画, nhiều bức tuyệt đẹp không chỉ do sức quyến rủ gợi tình mà còn là những kiệt tác nghệ thuật. Chúng cũng thể hiện những phương diện quan trọng khác trong tính dục như sự dịu dàng, trìu mến và hài hước.
Xuân cung hoạ mô tả cảnh sinh hoạt tình ái nam nữ không theo lối dung tục hay khiêu dâm mà luôn đặt vào trong những khung cảnh đề cao cái đẹp và sự hài hoà, cùng với những chi tiết phụ trong tranh mang tính tượng trưng thâm thuý. Học giả lừng danh R. H. van Gulik đã công nhận xuân cung hoạ là một hình thái nghệ thuật và là di sản tinh thần của nhân loại. Trong thời vàng son của Xuân cung hoạ vào cuối thời Minh, chính các hoạ sĩ đã tự tay kí tên vào tác phẩm mà không sợ sự kiểm duyệt, cũng do chính sách thời đó đã cổ vũ sự phát triển nghệ thuật và khoa học, có thể kể tên tuổi những hoạ sĩ hàng đầu như Đường Dần (tự Bá Hổ với hoạ tậpUyên ương bí phổ), và Cừu Anh đã đóng góp vào thể loại tranh này.
Tác phẩm xuân cung hoạ do những nhà sưu tập phương Tây tìm cách sưu tập được là bằng chứng cho thể loại nghệ thuật độc đáo này. Bộ sưu tập tiêu biểu và quan trọng bậc nhất là của Ferry Bertholet, suốt nhiều năm trời ông đã kiên nhẫn sưu tập để cứu vãn một phần kho tàng này thoát khỏi những chiến dịch chính trị đập phá và bài trừ văn hoá truyền thống ở ngay chính xứ sở đã sản sinh ra chúng. Dưới đây là những bức xuân cung hoạ chọn lọc từ bộ sưu tập nói trên.
*
Bốn bức dưới trích trong hoạ tập miêu tả cảnh “vui xuân bốn mùa” của một nho sĩ trẻ sống cách biệt với bên ngoài. Chàng vui vầy cùng với những thê thiếp. Trong mỗi mùa đều có vẻ quyến rủ riêng.






Xuân cung hoạ dưới đây miêu tả tình tiết các cảnh trong cuốn đệ nhất phong lưu tiểu thuyết là Nhục bồ đoàn của Lý Ngư, viết vào nửa đầu thế kỉ 17.









*Toàn hoạ tập dưới bao gồm 12 bức vẽ trên giấy, phô bày những cảnh tính dục trụy lạc, tai tiếng, hoặc đoạ lạc (perverted). Ba bức đầu kể câu chuyện về một nho sĩ trẻ dáng vẻ ẻo lả theo dõi và tán tỉnh một cô gái lẳng lơ đang trang điểm bên song cửa. 



Bức tiếp theo cho thấy họ ở trong buồng của cô gái và đang mơn trớn nhau, nhưng họ bị người mẹ phát hiện và bà cảm thấy nhục nhã. 

Bức thứ ba cho thấy người cha của cô gái đến để trừng phạt cặp trai gái lúc họ đang làm tình. Điều trớ trêu là ông già này bị mù vì thế cặp tình nhân trẻ không mấy sợ hãi khi ông tới gần. Nhưng ông đang thủ con dao phay sau lưng. 


Bức trên cho thấy một cặp đang giao hoan trên cái sập.


Nhưng với bức này tình hình sung động hơn với cặp trai gái đang làm tình trong vườn. Một cô khác cho cô bạn mượn lưng để làm ghế gác chân, đồng thời đang quan sát gần bộ phận sinh dục của cặp trai gái. Cô ta sắp thọc ngón tay vào hậu môn của chàng trai trẻ. 


Vẫn trong vườn, cô gái bây giờ ở tư thế bên trên trong lúc chàng trai nút vú cô. Một nàng khác đang đứng nhìn.


Lúc này, bộ ba xà nẹo vào nhau theo một kiểu cách thật khó phân biệt ra tay chân của ai ra của ai.

Ở đây người vợ đang mơn trớn kích thích ngọc hành của chồng để chuẩn bị giao hoan.

Sau đó, bộ ba ra ngoài vườn, chàng trai thắt vào một sợi dây vừa để trợ giúp cương cứng được lâu vừa ngăn xuất tinh. Người vợ ôm lấy người thiếp trẻ trên đùi và dang rộng ngọc môn của cô ta ra cho chàng chơi. 

Cũng bộ ba ấy trong cảnh một khu vườn khác, chàng ta và nàng hầu đang âu yếm nhau. Người vợ nhìn xem và bị phấn khích tới đỗi phải chùi bộ phận ngọc môn đang rỉ ướt. 


Và còn quá độ hơn, hoạ sĩ miêu tả hai người đàn ông chuẩn bị giao hoan. Một cô gái ngồi trên lưng chàng trẻ tuổi hơn với bộ phận sinh dục mở rộng để kích thích người đàn ông khác đang sửa soạn nhét vào người bạn đồng giới.


Cảnh cuối trong hoạ tập xảy ra ở lầu xanh (để ý nhạc cụ treo trên tường). Một người đàn ông mù đang ôm cô gái trên đùi, trong khi cô ta đưa tay níu một cậu bé vào cuộc chơi.

LAN MAN VỀ NHẬU

Khoai@


Xin lỗi trước, anh đang không được bình thường, bực bội trong người, bởi vậy trong entry này anh văng tục. Tất nhiên, các bạn đoan trang không nên đọc tiếp.

Cận tết anh phải nhậu suốt.

Đêm qua bí tỉ chổng đít nôn tháo nôn thốc gốc cây xà cừ, trưa này lại nhậu vãi linh hồn với mấy thằng em. Mk, chúng khỏe như bò, lùa rượu như bão. 4 thằng 6 chai Tổng thống Nga đai đen bay cái vèo, vậy mà vẫn chém gió phần phật. Tỉnh dậy, mặt mũi bơ phờ, đầu óc choáng váng, ngất ngây con gà tây, quần áo xộc xệch như thằng ỉa chảy. 

Thế là mất toi một ngày. Anh thật, đé* có nơi nào đã nghèo lõ đít,  đói thối mồm nhưng lại mê mải bù khú rượu bia như xứ lừa này.

Đây không phải giọng tuyên huấn, nhưng thực tế anh thấy ở xứ ta con người được tự do tới mức quá trớn trong việc uống bia rượu, và ứng xử bậy ngoài đường. Thật, đ** có nơi nào mọi rợ như cái nơi này.

Ra đường mà xem, ở đây ta có thể đi đái ngoài đường, hút thuốc bất cứ đâu, vứt rác bất cứ đâu ta muốn, thậm chí cả đi ị ngoài đường cũng đ** ai dám nói gì. Ngược lại với cái bạo dạn chí phèo ấy, trong phạm vi mà thế giới văn minh cho phép và khuyến khích như hội họp được phép phản biện, thì ở ta lại đ** dám bày tỏ chính kiến. Ở đâu cũng thế, thằng đầu to tha hồ hướng lái vấn đề, thằng đầu đất cứ thế gật và vỗ tay rầm rập. Thằng nào nói trái ý bố thì bố nhớ, thằng nào gật thì bố ghi nhận. Vì thế có những thằng chỉ giỏi nịnh, chỉ giỏi uống rượu, đến luận văn, luận án, bài báo còn phải đi đạo thì cứ vù vù thăng tiến. Đcm, cứ kiểu này thì biết đ** bao giờ mới tiến lên xã nghĩa? Đất nước này rồi sẽ đi về đâu?

Lại nói về cái tự do quá trớn kiểu mất dạy, anh đây đã nhiều lần chứng kiến mà vãi cả linh hồn. Cơ quan anh gần bến xe bus, đi làm tất nhiên phải qua đó. Đã nhiều lần chứng kiến những con lợn giống đực ngang nhiên vạch quần chĩa vào gốc cây mà đái, đã thế, đái xong lại còn vẩy chim phần phật như chốn không người. Anh đã một lần đi qua khu Thanh Xuân vào buổi sáng, đúng giờ đi làm, rất nhiều người đi ngang qua, thấy một con có vẻ như sinh viên, ngang nhiên ghếch mông bậy bên vệ đường, kì lạ là nó chả ngượng gì. Khách khứa nườm nượp qua lại, nó vẫn có thể "chảy đi kìa sông ơi" bình thường, ai qua cũng bịt mũi kinh tởm, mà đ** ai dám nói gì. Không hiểu lũ súc vật này lại xuất hiện trên trái đất nhỉ?

Lại nói tiếp về chuyện nhậu, anh cũng vừa đi nhậu về. Bàn bên cạnh có mấy thằng ngồi với nhau từ lúc anh vào. Khi anh vào, chúng ngồi uống bình thường, điềm đạm có vẻ thân nhau. Được khoảng tiếng sau, bọn này bắt đầu to giọng. Một thằng dáng khá là trí thức quát thằng già: "cái đ** con mẹ mày chứ bố mày bảo mày câm để bố mày nói cho mà nghe, mày biết b*** gì mà nói?". Thằng già cố nói thêm vài câu, lập tức thằng "trí thức" đứng dậy quát: "Đ** bác mày chứ có im không bố mày cho cái cốc vào đầu, đ** mẹ mày biết con xe kia bố mày mua bao nhiêu không, bây giờ mày thách bố mày đập 1 phát bẹp mẹ nó mui không, tiền với bố mày đe* là cái chim gì quan trọng, là tình cảm thôi nhá, nhá, nhá, được chưa?". Sau cú dọa đập xe của chính mình, tình hình có vẻ được vãn hồi. Nhưng ngay sau đó, trên người chúng có cái gì là lôi ra bằng sạch, lôi cả cụ kỵ tổ tông, họ hàng hang hốc ra và gán với từ đ**. Ngạc nhiên là tất cả các bàn đều không quan tâm, họ thản nhiên nhậu như không có chuyện gì. Anh khó chịu vô cùng, nhậu kiểu gì mà thằng nào cũng tỏ vẻ anh chị, nạt nộ nhau dù chúng nó là bạn bè. Anh nghĩ thế thì đi uống làm đéo gì, bạn bè ngồi uống là để vui chứ còn nạt nộ doạ nạt nhau thì đi về chứ ngồi làm gì? Thế mà chúng nó vẫn cứ ngồi, ra sức tinh tướng với nhau mà mãi vẫn đéo thấy đánh nhau chém nhau, anh chả hiểu ra thế nào nữa. Vì nể bạn mà phải ngồi đây chứng kiến đúng là cục khổ.

Anh nghĩ, nhậu với nhau mà thế thì quả là mọi rợ đến dã man. Cứ xem chúng đớp, nốc; xem chúng đối xử với nhau, phớt lờ cộng đồng; xem chúng nó quát nạt nhân viên phục vụ; xem cách chúng trịch thượng trả tiền thì rõ, chúng chỉ là loài ếch nhái của thế giới văn minh, dù chúng nó đông tiền như quân nguyên.

Bạn anh nói đơn giản hơn, nếu không có rượu thì đám nghiện rượu An Nam chả có chỗ đệch nào thể hiện phong độ với bản lĩnh. Vào quan bia, 1..2..3 dô, 1...2...3.. uống, đấy là âm thanh kinh dị nhất mà anh phải nghe, uống rượu đ** gì mà cứ gào như hò kéo pháo. Bầy đàn hung hãn man rợ từ cái nhỏ nhất.

Còn nhớ hôm rồi, đi uống với đám bạn, anh bệnh nên cầm lon coke nhấp môi. Một con nách dài đến chân, cấu hình tạm ổn nhảy từ bàn bên sang và hỏi anh như người ngoài hành tinh: Lớn thế này mà coke hả? Đấy, đến đàn bà cũng còn máu me hoang dã đến thế thì trách sao được đám đực rựa?

Vậy nên, ai đó dã đúng khi nói rằng: Nói về bia rượu thì trên thế giới này không đâu có thể sánh vai cùng với Việt Nam.

Entry sau: Uống Rượu được coi là một tiêu chí để đánh giá sự hòa đồng và thăng chức. 

SỰ SỤP ĐỔ TẤT YẾU CỦA MỘT CHẾ ĐỘ BÙ NHÌN, THẤT BẠI TẤT YỄU CỦA MỘT ĐỘI QUÂN ĐÁNH THUÊ

Sự sụp đổ tất yếu của một chế độ bù nhìn, thất bại tất yếu của một đội quân đánh thuê

Tháng 4-1975, bằng tất cả ý chí và quyết tâm, sau mấy chục năm chiến đấu hy sinh gian khổ dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã đi tới thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Thế nhưng mấy chục năm qua, vẫn có một số người không dám nhìn thẳng vào sự thật, vẫn đưa ra một số luận điệu nhằm bao biện cho thất bại.

Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã diễn ra nhiều sự kiện phức tạp trên mặt trận quân sự, kéo theo sự phức tạp trên chính trường thế giới. Nhưng dù phức tạp như thế nào thì không ai có thể bác bỏ một sự thật rõ ràng, hiển nhiên là thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam và sự sụp đổ tất yếu của chính quyền Sài Gòn. Vậy mà sau gần 40 năm, vẫn có người đặt câu hỏi "Có phải chính quyền Sài Gòn sụp đổ vì bị Mỹ "bỏ rơi"?" để bao biện cho thất bại. Câu hỏi này dựa vào ý kiến của một số người từng một thời giữ vai trò quan trọng trong chính phủ Mỹ cho rằng họ đã thắng trong chiến tranh (!). Như cựu tổng thống R. Nixon coi việc chính quyền Sài Gòn sụp đổ là do Quốc hội Mỹ không cho G. Ford quyền sử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ nam Việt Nam như Nixon đã hứa với Nguyễn Văn Thiệu trước đó, không những thế, Quốc hội Mỹ còn bác đề nghị chi 722 triệu USD cứu nam Việt Nam (!). Còn H. Kissinger thì cho rằng thảm kịch của Mỹ là do tình hình nội bộ của Mỹ (ý nói vụ Watergate), nếu không có sự kiện này, R. Nixon đã có thể hạ lệnh ném bom quân bắc Việt ngay từ tháng 4-1973! Tuy nhiên, chính H. Kissinger cũng phải thừa nhận đã đánh giá sai về sự sẵn sàng của nhân dân Mỹ trong việc ủng hộ sự can thiệp của Mỹ. Trong cuốn Không hòa bình, chẳng danh dự, Nixon, Kissinger và sự phản bội ở Việt Nam GS L. Berman dẫn lời R. Nixon, H. Kissinger rằng, họ có thể nhìn thấy nam Việt Nam thất bại nhưng lại muốn thất bại đó không diễn ra trong nhiệm kỳ của mình; R. Nixon muốn một tình trạng bế tắc vô hạn định bằng cách sử dụng B.52 bảo vệ nam Việt Nam đến hết nhiệm kỳ tổng thống; Hiệp định Paris có thể sẽ tạo cớ cho Mỹ can thiệp vào nam Việt Nam, tuy nhiên vụ Watergate đã làm hỏng những toan tính đó,...!

Những người đặt câu hỏi: "Có phải chính quyền Sài Gòn sụp đổ vì bị Mỹ "bỏ rơi"?" đã không quan tâm tới ý kiến của rất nhiều học giả và nhà nghiên cứu khẳng định thất bại của chính quyền Sài Gòn là không tránh khỏi. Như F. Snepp viết trong cuốn Một khoảng thời gian thích đáng thì Hiệp định Paris chỉ là hình thức bỏ chạy của Mỹ, các vấn đề còn lại của chiến tranh không được giải quyết. Sau ngày chiến tranh kết thúc, xuất hiện tiếng nói giận dữ và oán hận từ phía Nguyễn Văn Thiệu và phụ tá thân cận của ông ta cho rằng họ thua trận vì bị Mỹ phản bội và bỏ rơi, thậm chí cho rằng nam Việt Nam thua trận vì vừa phải đối phó với bắc Việt, lại vừa phải đối phó với đồng minh của mình! Trong cuốn Hồ sơ mật dinh Ðộc Lập, Nguyễn Tiến Hưng - Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của chính quyền Sài Gòn, người được Nguyễn Văn Thiệu phái đi cầu viện lần cuối cùng, đã công bố một số bức thư R. Nixon gửi Thiệu. Trong một bức thư ngày 14-11-1972, R. Nixon nhấn mạnh: "Tôi tuyệt đối cam đoan với ngài rằng, nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp định này thì tôi cương quyết sẽ có hành động trả đũa mau lẹ và ác liệt", và Thiệu đã coi những lời lẽ này như "lời hứa danh dự" và đó chính là một lý do để ông ta lên án Mỹ nặng nề trong diễn văn từ chức ngày 22-4-1975. Nhà báo, sử gia người Ðức - Tiến sĩ Winfried Scharlau (1934 - 2004), phóng viên chiến trường, một trong những nhà báo phương Tây cuối cùng rời Việt Nam trong tháng 4-1975 ghi lại: "Vào buổi tối, ông (Nguyễn Văn Thiệu) đã thổ lộ niềm cay đắng của mình về nước Mỹ trong một bài diễn văn trên truyền hình. Thiệu lên án Bộ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ H. Kissinger đã không nhận ra, rằng Hiệp định do ông ta thương lượng trong tháng giêng 1973 đã dẫn miền nam đi tới chỗ chết, "Ai cũng nhận ra điều đó, nhưng Kissinger thì không. Các cường quốc có lợi ích chung. Chúng tôi không có gì để hy sinh ngoài đất nước nhỏ bé này"!

Trong tình thế phải "xuống thang" rút quân viễn chinh về nước, nhưng vẫn muốn gây sức ép để đạt được kết quả có lợi trên bàn hội nghị, Mỹ tiếp tục cố gắng kéo dài chiến tranh, thậm chí mở rộng chiến tranh ra ngoài biên giới miền nam Việt Nam. B.52 và cuộc tấn công tàn bạo trút bom xuống Thủ đô Hà Nội vào dịp Giáng sinh năm 1972 của R. Nixon đã không lật ngược được thế cờ. Mỹ phải chấp nhận Hiệp định Paris, và cũng gấp rút thực hiện các biện pháp đối phó. Ngay sau khi thống nhất khái niệm "ba vùng kiểm soát" trong dự thảo Hiệp định Paris, H. Kissinger lập tức điện cho E. Bunker - Ðại sứ Mỹ ở Sài Gòn, "yêu cầu Thiệu cố gắng hết sức để lấn chiếm được càng nhiều càng tốt vùng do Chính phủ cách mạng lâm thời kiểm soát". Và Thiệu đã gấp gáp xúc tiến kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm, bình định trong thời gian cố tình trì hoãn việc ký Hiệp định. Trước khi ký Hiệp định Paris, Mỹ gấp rút thực hiện hai kế hoạch Enhance (Tăng cường) và Enhance Plus (Tăng cường thêm nữa) để củng cố sức mạnh cho quân đội Sài Gòn với hy vọng đội quân này đủ sức đứng vững sau khi quân Mỹ rút đi. Trong thời gian từ cuối năm 1972 đến đầu năm 1973, qua cầu hàng không, Mỹ đã cung cấp cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu 700 máy bay, 500 pháo các loại, 400 xe tăng và xe bọc thép, bổ sung hai triệu tấn dự trữ vật tư chiến tranh...

Vượt qua mọi toan tính của Mỹ, sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước của quân và dân Việt Nam đã liên tục giành những thắng lợi to lớn, đi đến thắng lợi cuối cùng. Về mặt quân sự, sau khi lính Mỹ đã rút đi, nguồn viện trợ quân sự từ Mỹ bị sụt giảm đáng kể, quân đội Sài Gòn không thể làm nổi những gì mà hơn hai triệu lượt quân viễn chinh Mỹ và gần 10 triệu tấn bom đạn không làm được trong những năm trước đó. Về mặt chính trị, Mỹ chọn giữ lại Nguyễn Văn Thiệu như một bảo đảm về cơ hội để có thể tiếp tục can thiệp, bảo đảm vai trò của Mỹ ở khu vực,... Nhưng họ đã "đặt cược" sai. Vì cũng như các chính quyền trước đó ở Sài Gòn, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là do Mỹ dựng lên, nuôi dưỡng. Chính quyền đó chỉ có thể tồn tại nhờ chiến tranh, nguồn sống của nó chỉ là viện trợ Mỹ, cho nên nó không thể giải quyết hàng loạt vấn đề chính trị - kinh tế - xã hội phức tạp nảy sinh sau khi quân Mỹ rút, viện trợ Mỹ chỉ còn nhỏ giọt. Vì là chính quyền bù nhìn, cho nên khi Nguyễn Văn Thiệu cố dây dưa không ký Hiệp định Paris, trong thư gửi Nguyễn Văn Thiệu ngày 16-1-1973 R. Nixon mới có thể viết: "Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23-1-1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một mình. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi, lập tức viện trợ kinh tế, quân sự của Hoa Kỳ và một sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói trước". Cách đây dăm năm, sau khi nội dung các cuốn băng ghi âm R. Nixon cho ghi tại Nhà trắng trong thời kỳ ông còn đương nhiệm được công bố, dư luận còn biết thêm nhiều điều. Trong những ngày bày mưu tính kế để rút quân Mỹ khỏi nam Việt Nam, ép chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải ký Hiệp định Paris, trao đổi với H. Kissinger, R. Nixon từng đưa ra ý kiến: "Nói một cách khác, tôi không biết sự đe dọa của chúng ta có đi quá xa hay không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ điều gì kể cả những điều không hay ho gì như cắt cái đầu Thiệu" (!). R. Nixon còn nói thẳng với cố vấn đặc biệt của Nguyễn Văn Thiệu: "Các ông hãy nhớ thật kỹ rằng: nếu không có viện trợ Mỹ thì Sài Gòn không thể tồn tại... không có ngân quỹ Mỹ thì Sài Gòn coi như chấm dứt". Ðó là ngôn ngữ của người biết mình có tư thế "ông chủ", ngôn ngữ của người chi tiền. Chính vì nhận ra số phận bù nhìn của mình, Nguyễn Văn Thiệu mới phải công khai thú nhận: "Mỹ còn viện trợ thì chúng ta còn chống cộng", "Nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi dinh Ðộc Lập"!

Ý chí độc lập tự do, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam được hun đúc từ lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Cho nên dù thế lực ngoại xâm có sức mạnh vật chất to lớn đến đâu, dù thế lực ngoại xâm tàn bạo đến như thế nào cũng không thể làm suy giảm niềm tin, ý chí đấu tranh vì độc lập dân tộc. Vì thế, âm mưu và cố gắng tuyệt vọng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ khi Hiệp định Paris được ký kết đến ngày 30-4-1975 càng làm cháy bỏng thêm ngọn lửa của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu đi đến đích cuối cùng. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trước hết bắt nguồn từ cuộc đấu tranh chính nghĩa và sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Ðảng Cộng sản Việt Nam, sự chiến đấu dũng cảm, hy sinh quên mình của quân đội và nhân dân Việt Nam sau mấy chục năm đấu tranh gian khổ. Còn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn tháng 4-1975, trước hết do tính chất bù nhìn và mục đích phản dân tộc của nó. Ðó là một trong các nguyên nhân đưa tới quyết định sai lầm về sách lược chính trị, chiến thuật quân sự của Nguyễn Văn Thiệu. Thất bại ở Buôn Ma Thuột vào tháng 3-1975 nhanh chóng làm đảo lộn thế trận của chính quyền bù nhìn này trên toàn miền nam. Một đội quân có hơn một triệu người, ở thời điểm năm 1975 được đánh giá đứng thứ tư trên thế giới về lục quân, không quân, đứng thứ chín về hải quân,... gấp đối phương hai lần về quân số, bốn lần về xe tăng, hơn tuyệt đối về không quân và hải quân, đã nhanh chóng tan rã và thất bại trong chưa đầy hai tháng. Vì tính chất phi nghĩa của sự tồn tại mà đội quân ấy đã thất bại. Nói như GS N. Chomsky thì đó là "đội quân thiếu sự ủng hộ của nhân dân (nhất là ở nông thôn)", hay theo cách nói của W. Colby - người từng đứng đầu phái bộ CIA tại miền nam Việt Nam - đó là đội quân được Mỹ cho mọi thứ cần thiết, "trừ sự dũng cảm"!

Thiên Phương/Nhân Dân