Xứ Thanh
Trong các cuộc bút chiến về tự do báo chí, một số người viện dẫn tự do báo chí ở Mỹ như là một mẫu hình, thậm chí là hình tượng duy nhất có. Gần đây, một số sách và tài liệu của một số tổ chức nước ngoài xuất bản ở nước ta cũng một mực ca ngợi tự do báo chí ở Mỹ như một hình mẫu có một không hai. Thậm chí, một số đối tượng hoạt động chống Đảng, Nhà nước Việt Nam vẫn thường lấy tự do báo chí ở Mỹ; mang Hiến pháp Mỹ ra để “răn dạy”, để bôi nhọ, và xuyên tạc Việt Nam không có tự do, dân chủ, đặc biệt là tự do báo chí.
Thế nên, tác giả muốn thông qua bài viết này để người đọc có sự tham khảo khách quan về tự do báo chí ở Mỹ, và nhất là qua đó để xem xét rõ các luận điệu xuyên tạc của các đối tượng thù địch với Việt Nam:
Lịch sử nước Mỹ thời kỳ thuộc Anh, báo chí phải được cấp phép và chịu sự kiểm duyệt gắt gao trước khi xuất bản. Hiến pháp Mỹ được ban hành năm 1787 không bao gồm điều khoản về tự do báo chí.
Năm 1791, Quốc hội Mỹ ban hành “Đạo luật về quyền con người” (Bill of Rights) bao gồm 10 điều khoản bổ sung, sửa đổi của Hiến pháp 1787 (còn gọi là 10 Tu chính án).
Trong 10 điều khoản bổ sung đó, Tu chính án thứ nhất quy định quyền TDBC của người dân Mỹ như sau: “Quốc hội sẽ không ban hành một luật nào giới hạn quyền tự do ngôn luận hay quyền TDBC của công dân…”.
Mỹ là quốc gia không có luật báo chí, những gì liên quan đến báo chí chỉ vẻn vẹn được ghi một câu trong Tu chính án lần thứ nhất (Điều bổ sung, sửa đổi) như vậy. Cho nên, không ít người cứ viện dẫn vào điều bổ sung này mà nói rằng, TDBC ở Mỹ là không giới hạn.
Năm 1787, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson, người soạn thảo chính bản tuyên ngôn độc lập Mỹ, đã viết: “Nếu tôi buộc phải quyết định xem chúng ta có cần một chính phủ không có báo chí hay có nền báo chí mà không cần chính phủ, tôi sẽ không ngần ngại lựa chọn giải pháp thứ hai”.
Tự do báo chí Mỹ bị chi phối bởi quyền lực chính trị.
Cùng với kinh tế, quyền lực chính trị càng chi phối, kìm chế quyền tự do báo chí của công dân ngày càng quyết liệt hơn.
Rõ ràng là ở Mỹ có TDBC, nhưng sự tự do ấy không dành cho số đông và phải phục vu lợi ích chính trị của Mỹ, trước hết là lợi ích của nhà cầm quyền – chính phủ Mỹ.
Ở Mỹ, chính nhiều người Mỹ cho rằng, hai công cụ chủ yếu được dùng để điều phối tự do thông tin báo chí là sức mạnh quyền lực chính trị và tài chính.
Hai gọng kìm này được coi là công cụ mềm dùng để điều chỉnh các chủ báo. “Chúng ta bị lừa gạt bởi giới cầm quyền, thông tin bị cắt xén, và các cuộc tranh luận bị cản trở. Họ cho rằng như thế là cần thiết để duy trì một nền dân chủ thực sự… Hệ thống báo chí của chúng ta đang trở thành thiên đường của những kẻ lừa dối, ở đó, giá của sự xuyên tạc, bóp méo đã xuống quá thấp.”
Bản báo cáo Xu thế năm 2005 cho thấy, gần 1/2 những người tham gia trả lời phiếu thăm dò nói “Tin tưởng ít hoặc không tin tưởng chút nào” vào báo chí hàng ngày, trong khi năm 1985 chỉ có 16% số người được hỏi có câu trả lời như vậy. Đa số người cho rằng, càng ngày báo chí hàng ngày ở Mỹ bị chính trị chi phối, cho nên họ không tin.
Theo John Nichols và Robert McChesney, dưới sự chỉ đạo của chính quyền Bush, 20 cơ quan liên bang đã sản xuất và phát sóng hàng trăm mẩu tin với số tiền đầu tư khoảng 254 triệu đô la Mỹ. Nội dung các mẩu tin đề cập đến vấn đề cải cách chương trình chăm sóc người cao tuổi vốn đang gây tranh cãi trong xã hội và dựng lên hình ảnh người dân Mỹ “biết ơn” Tổng thống Bush.
Những mẩu tin hư cấu này được phát sóng trên truyền hình mà không thông báo cho khán giả rằng chúng được sản xuất bởi chính phủ chứ không phải các đài truyền hình.
Ngoài ra, chính quyền Bush đã thuê một số bình luận viên lên truyền hình để ca ngợi chính sách của chính phủ. Một trong số đó là Amstrong Williams. Ông này đã nhận 240.000 đô la từ Bộ Giáo dục để ca ngợi Đạo luật Không bỏ rơi trẻ em.
Đầu năm 2003, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đã đầu tư huấn luyện các nhà báo và chi tiền đưa họ đi theo quân đội ra chiến trường chuẩn bị cho cuộc tấn công vào Iraq, mặc dù trước đó, báo chí hoặc bị cấm đưa tin về chiến trường hoặc được đưa tin nhưng phải theo định hướng của quân đội. Nhà báo kỳ cựu Peter Arnett chỉ vì trả lời phỏng vấn trên đài truyền hình Al-Jazeera không có lợi cho ý đồ của Mỹ trong cuộc chiến này đã bị hãng NBC đột ngột chấm dứt hợp đồng.
Peter Arnett từng giật giải báo chí Pulitzer khi đưa tin về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam cho hãng thông tấn AP. Ông cũng được đánh giá rất cao vì tác nghiệp xuất sắc trong chiến tranh vùng Vịnh 1991 khi còn là phóng viên của CNN.
Trong một phóng sự năm 1998, Arnett đã cáo buộc quân Mỹ sử dụng khí độc sarin để giết những người phản bội tại một ngôi làng ở Lào năm 1970. Sau đó, ông bị khiển trách và rời CNN. Ông nói: “Tôi bị sa thải vì đã nói lên sự thật”. Và trong các lần ông bị sa thải khỏi các hang truyền thông, nguyên nhân duy nhất là nói lên sự thật.
Hơn nữa, ở Mỹ, không phải mọi vấn đề đều được công khai với báo chí, ví dụ như chuyện Mỹ tài trợ cho bọn phản động người Việt tiến hành các hoạt động chống phá ta, kích động bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001, 2003.
Ở nước mình, báo chí nói nhiều đến những vấn đề này, còn báo chí Mỹ không dám đề cập. Hàng năm CIA điều phối hàng chục tỷ USD thông qua các quỹ, các tổ chức phi chính phủ để “điều phối tự do thông tin báo chí” nhằm mục đích chính trị thông qua các phương thức “tài trợ”, nhưng báo chí Mỹ cũng không hề đụng chạm đến nguồn tiền và đường đi của những đồng đô-la này.
Nhà sử học Mỹ Howard Zinn mới đây viết trên báo Pháp Le Monde cho rằng, ở nước Mỹ, có 1% số dân nắm gần một nửa của cải của đất nước. Thể chế của chính quyền và nền báo chí Mỹ phục vụ những người giàu nhất và quyền lực cao nhất ở Mỹ.
Nhà báo, giáo sư Mỹ William F. Vu (Đại học tổng hợp Stanford) viết: “Một nền báo chí mà đã trở thành con tin của các tỷ phú, thì không còn là một nền báo chí tự do, cũng như khi nó là con tin trong tay chính phủ” .
Mặt khác, cũng cần phải khẳng định rằng, ở Mỹ cũng có báo chí tiến bộ và nhiều nhà báo tiến bộ, có tâm trong sáng và trách nhiệm xã hội trước công chúng và lịch sử. Không ít nhà báo Mỹ có tài năng và lương tâm nghề nghiệp. Chúng ta trân trọng những bài báo đã nói lên sự thật mà nhiều nhà báo Mỹ đã viết về những điều tốt đẹp mà nhiều nguời Mỹ đã làm để chống lại chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai quốc gia, hai dân tộc Việt Nam và Mỹ. Họ chính là những người đã thực hiện được ý tưởng của nhà báo Mỹ nổi tiếng J.Pulitzer cách đây hơn một trăm năm khi ông viết (năm 1892): “Một nền báo chí có năng lực, không vụ lợi và có tinh thần hướng về công chúng với những hiểu biết có được từ đào tạo để biết bảo vệ lẽ phải, thì sẽ gìn giữ được sự tốt đẹp của công chúng mà thiếu nó thì chỉ là điều giả dối và là trò hề”.
Hơn một thế kỷ sau, tuyên bố của J.Pulitzer, nhà báo danh tiếng Ben Bardikian viết trong cuốn sách Độc quyền thông tin đại chúng rằng “Phần lớn những gì mà những người Mỹ đọc trong các tờ báo của họ và nhìn thấy trên màn hình đều là sản phẩm của một nhóm những công ty khổng lồ.”
Theo báo cáo điều tra của trường Đại học Sô-nô-ma, vấn đề TDBC ở Mỹ đang bị khủng hoảng. Khi nổ ra cuộc chiến tranh Iraq, các phóng viên Mỹ đã phải ký thỏa thuận với Bộ Quốc phòng Mỹ viết bài, đưa tin theo sự điều khiển của Lầu Năm góc.
Các phóng viên hầu hết ở phía sau chiến tuyến, viết bài, viết tin dựa vào các tin và tài liệu do trung tâm chỉ huy quân đội Mỹ ở Quartar cung cấp. Chính quyền Mỹ dùng mọi cách ngăn cấm báo chí đưa tin kịp thời và đúng sự thật về chiến tranh Iraq.
Dư luận thế giới cho rằng, trong chiến tranh Iraq, nhiều hãng tin và tờ báo lớn của Mỹ, vì giả dối và chậm trễ, đã thua kém báo chí các nước khác, nhất là kênh truyền hình Al-Jazeera của Qatar.
Từ thực tế trên đây có thể nêu ra một số nhận xét bước đầu về TDBC ở Mỹ như sau.
Một là, luồng ý kiến thứ nhất cho rằng ở Mỹ có TDBC khá hoàn hảo. Cũng như nhiều nước khác, Mỹ đã có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nhất là Tu chính án thứ nhất, bảo đảm cho TDBC hoạt động. Nếu chỉ căn cứ vào Tu chính án thứ nhất thì có thể cho rằng TDBC ở nước này là vô hạn độ; nhưng trong thực tế thì hoàn toàn không như vậy.
Ngoài Tu chính án thứ nhất, quốc hội Mỹ, Tòa án tối cao liên bang và chính quyền các bang đã ban hành hàng trăm văn bản làm công cụ điều chỉnh và hạn chế TDBC, chứ không như một số người lầm tưởng.
Tom McEnroy cũng thừa nhận rằng, “báo chí Mỹ đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu. Điều đó có nghĩa là bạn không thể xuất bản những điều có thể gây tổn hạn đến lợi ích của mình. Mỹ là một nước tư bản, và bất kỳ thực thể nào, từ nhà thờ, bệnh viện, đài truyền hình,… trước hết là một doanh nghiệp và phải tự nuôi sống mình. Nếu tôi cho đăng một quan điểm chống Chính phủ, một vài người sẽ không đồng ý và có thể sẽ áp đặt những hình phạt kinh tế đối với tờ báo của tôi để thể hiện sự không hài lòng của mình. Ví dụ, họ có thể kêu gọi những người ủng hộ họ không mua báo của tôi. Tôi cho đăng những bức ảnh khiêu dâm trên báo mình? Chắc chắn độc giả sẽ không đọc báo của tôi nữa, đồng nghĩa với việc khách hàng quảng cáo của tôi sẽ dừng ngay hợp đồng, và đương nhiên tôi sẽ phá sản”.
Hai là, trong thực tế, chính quyền Mỹ đã tìm mọi cách – kể cả dùng quyền lực chính trị và sức mạnh đồng đô-la để thao túng báo chí. Có thể kể ra mấy “chiêu” cụ thể như:
1)Dùng quyền lực chính trị chi phối, lũng đoạn thông tin báo chí (như trên đã dẫn);
2) Tin truyền hình giả mạo, như chính quyền Bush đã chi gần 254 triệu đôla để ca ngợi chính sách của mình, để gây dựng hình ảnh.., thao túng cuộc chiến tranh Iraq. Nói đúng ra là Mỹ đã thực hiện cùng lúc 3 cuộc chiến tranh ở Iraq (2003) – chiến tranh bằng vũ khí nóng, chiến tranh thông tin báo chí truyền thông nhằm đánh vào tâm lý và dư luận xã hội và chiến tranh tài chính – dùng tiền mua chuộc các tướng lĩnh Iraq, cũng như mua chuộc giới truyền thông Mỹ, Anh và các nước đồng minh;
3) Hối lộ các bình luận viên. Chính quyền đã trả những khoản tiền bí mật cho ít nhất ba bình luận viên để họ ca ngợi chính sách của Chính phủ.
4) Tạo mọi điều kiện đẩy nhanh độc quyền truyền thông nhằm tăng cường kiểm soát TDBC thông qua các tập đoàn khổng lồ này. Ví dụ, chính quyền Bush hỗ trợ đằng sau các tập đoàn truyền thông để viết lại luật sở hữu trong lĩnh vực truyền thông, theo đó ủng hộ sự hợp nhất các tập đoàn và kiểm soát độc quyền thông tin thông qua các tập đoàn truyền thông này. “Chừng nào chính quyền chưa giải thích trước Quốc hội về những vụ “tấn công” báo chí, và chừng nào chưa có các tiêu chuẩn bảo đảm các vụ xâm phạm báo chí như vậy không bị lặp lại trong tương lai thì TDBC ở Mỹ vẫn chỉ là trên danh nghĩa”
5) Buộc nhà báo tiết lộ nguồn tin;
6)Đưa tin thiên lệch, bịt miệng báo chí và công kích trực diện, thậm chí đe dọa nhà báo. “Năm 1965, quân đội In-đô-nê-si-a, do Mỹ và CIA cố vấn, trang bị, huấn luyện và tài trợ, đã lật đổ Tổng thống Achmed Sukarno; xóa bỏ Đảng Cộng sản Inđônêsia và các đồng minh của đảng này; giết gần một triệu người (có số liệu còn hơn một triệu). Mãi ba tháng sau, thông tin này mới được tạp chí Time đề cập và thêm một tháng nữa mới được đăng trên tờ New York Times (05/4/1966), nhưng kèm theo một bài xã luận khen ngợi quân đội Inđônêsia đã “hành động kịp thời với sự cẩn trọng nhất… Hơn 40 năm qua, CIA đã can thiệp vào các vụ buôn bán ma túy ở Ý, Pháp, đảo Coóc, Đông Dương, Áp-gha-nít-tan, Trung và Nam Mỹ. Phần lớn các hành động này đã bị điều tra ở Quốc hội những năm 1970, 1980. Tuy nhiên, truyền thông tư bản có vẻ “không hay biết” về vấn đề này.” Bà Merle Ratner – một nhà báo tự do, hiện đang tham gia rất tích cực vào cuộc đấu tranh của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, cho rằng trong dòng truyền thông chính thống (nhật báo, tạp chí, phát thanh và truyền hình) mà mọi người thường đọc và xem, nội dung phải tuân theo những điều mà giới tư bản cho là có thể chấp nhận được. Việc này không thực hiện bằng sự kiểm duyệt trực tiếp của chính phủ đối với tin tức, mà bởi quyền lãnh đạo tư tưởng ở Mỹ (dưới tên gọi “trợ lí truyền thông”). Ở các báo, đài truyền hình, đài phát thanh lớn, bất kỳ phóng viên nào tuyên bố (kể cả không phát sóng) rằng họ là cộng sản thì có thể sẽ bị sa thải ngay lập tức. Những nhà báo viết bài vượt qua ranh giới hệ tư tưởng thường bị thất nghiệp. Ví dụ, nhà báo đoạt giải Pulitzer Gary Webb viết một loạt bài gây chấn động về hoạt động buôn bán ma túy của CIA. Bài báo đã gây nhiều tranh cãi khiến anh ta bị đuổi việc và sau đó đã tự vẫn.
Hiện tại, theo bình chọn của các nhà nghiên cứu, Mỹ đứng thứ 23 thế giới về tự do báo chí. Đây không phải là thứ bậc cao.
Phần lớn thông tin báo chí bị khống chế bởi các tập đoàn lớn, các tập đoàn này có quan hệ chặt chẽ với chính phủ. Bởi vậy mà báo chí Mỹ không thể có tự do rộng rãi. Đúng là so với nhiều phần khác trên thế giới, nước Mỹ có thể là “rộng mở” hoặc “tự do” về báo chí hơn một chút bởi do ảnh hưởng của văn hóa giao tiếp truyền thông, nhưng báo chí ở Mỹ vẫn tồn tại những vấn đề nghiêm trọng của nó.
Thực tế là tin tức hiện nay đã trở nên lá cải hóa, chủ yếu dành cho giải trí; các “ngôi sao” được lên truyền hình hoặc radio nhiều hơn tin tức thật sự, và tin tức quốc tế thì chưa bao giờ là tâm điểm trừ khi nó có liên quan đến nước Mỹ theo cách nào đó.
Bà Gabriela Martinez cũng khẳng định rằng, truyền thông Mỹ không phục vụ tầng lớp lao động. Mỗi tờ báo có một mục đưa tin về các tập đoàn, các doanh nghiệp, nhưng chỉ một vài tờ ít ỏi dành “đất” cho các vấn đề của người dân lao động.
Thêm vào đó, báo chí không thể đưa tin về các vụ tham nhũng hoặc những hạn chế chính sách của Chính phủ cho đến khi các vụ việc bị đưa ra ánh sáng và quá muộn để khắc phục sự cố. Nhiều tờ báo, đài truyền hình đang “tẩy chay” đưa những tin tức thực sự công chúng cần mà tập trung vào các câu chuyện giật gân về những người nổi tiếng…
James Rhodes, nhà báo tự do Mỹ, đã bị tờ Coosa News (bang Alabama) sa thải vì viết bài xã luận chỉ trích một nghị sĩ đảng Cộng hòa. Ông cũng bị dọa giết vì bài viết trên tờ Plain Talker về cái chết của Timothy McVey, cựu binh Mỹ trong chiến tranh vùng Vịnh, sau khi ông này bị một bệnh viện của Mỹ từ chối chữa bệnh.
“Nhà tôi ở Arizona đã bị ném bom xăng vào đêm Halloween năm 1990. Tôi cũng bị một nhân viên quân đội cảnh báo nên dừng những hoạt động của mình. Tiếp đó, nhà một người hàng xóm của tôi ở Camp Hill bị đốt cháy vì bị nhầm với nhà tôi.”
Ba là, sự thật hiển nhiên là tự do báo chí ở Mỹ không có hơn gì các nước khác; càng không thể là biểu tượng, đỉnh cao hay chuẩn mực mà nhờ đó Mỹ có quyền phán xét vấn đề này ở các nước khác.
Tháng 12/2007, đài BBC đã tiến hành khảo sát 11.344 người tại 14 nước về TDBC. Riêng đối với Mỹ, kết quả khảo sát cho thấy, 53% người Mỹ cho rằng báo chí Mỹ được tự do đưa tin không thiên lệch. Con số này thấp hơn so với mức trung bình trung của thế giới (56%).
Ngoài ra, người Mỹ cũng chỉ trích hoạt động của báo chí nước mình khi chỉ có 30% tin rằng báo chí đã đưa tin chính xác và trung thực, so với 43% của thế giới.
Bốn là, từ thực tiễn nghề nghiệp, hầu hết các nhà báo Mỹ đặc biệt chú trọng tính khách quan của sự kiện, tôn trọng và bảo vệ nguồn tin. Bởi vì nếu đưa tin sai sự thật hoặc sự thật không được kiểm chứng, thì hoặc rất dễ bị vào tù hoặc phải đền hàng triệu đô la do đối mặt với các vụ kiện cáo.
Mặt khác, không ít nhà báo Mỹ sẵn sàng chấp nhận vào tù bởi nhất quyết chống lại tòa án vì không tiết lộ nguồn tin – để bảo vệ nguồn tin đến cùng.
Đó cũng là đạo đức nghề nghiệp và thái độ tự chịu trách nhiệm được đề cao, chứ không phải thông tin sai sự thật nhưng không chịu cải chính và xin lỗi mà “đọc lại cho rõ”, “nói lại cho rõ”. Cho nên ở khía cạnh nào đó, làm báo ở Mỹ khó khăn phức tạp hơn nhiều.
Rõ ràng là, nếu như “ở Ba Lan, cứ 2 người có 3 ý kiến khác nhau”, thì ở Mỹ, vấn đề TDBC cũng không kém phần phức tạp, giữa có hay không có TDBC, và có ở mức độ nào về quyền TDBC và tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.
Không thể chối bỏ rằng ở Mỹ có TDBC, nhưng TDBC ấy không như nhiều người lầm tưởng, mà nó luôn bị quyền lực chính trị và sức mạnh đồng đôla chi phối, điều chỉnh và lũng đoạn.
Nếu như ở Mỹ, công dân có quyền dùng súng; và không ít trường hợp ngưới ta sử dụng quyền ấy để xả súng giết chết hàng chục người một lúc; thì chính quyền Mỹ cũng như các tập đoàn truyền thông siêu quốc gia cũng tha hồ tự do dùng quyền lực và tiền bạc chi phối, lũng đoạn TDBC vì lợi ích nhóm, chứ không vì lợi ích nhân dân Mỹ, mà thường được nhân danh vì lợi ích nước Mỹ.
Như vậy, nguyên lý cơ bản mà Các Mác đã nêu ra cách đây hơn trăm năm, rằng không nên bàn đến có hay không có TDBC; TDBC bao giờ cũng có, vấn đề là tự do cho ai và tự do để làm gì, vẫn giữ nguyên giá trị. Bởi vì trong xã hội có giai cấp và còn sự khác biệt về lợi ích nhóm, báo chí luôn thuộc về một giai cấp nhất định, thậm chí thuộc về một nhóm người nắm giữ quyền lực chính trị hoặc kinh tế – tài chính. Bởi vì việc giao tiếp, trao đổi, chia sẻ và truyền bá thông tin, thể hiện ý chí và nguyện vọng của con người trên báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn và chủ yếu nhằm thực hiện mục đích –lợi ích nào đó, trước hết là mục đích và lợi ích chính trị hay lợi nhuận. Mà chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, như V.I. Lê-nin đã khẳng định.
https://vitoquocvietnam.wordpress.com/2014/06/26/tu-do-bao-chi-kieu-my-the-nay-d-phai-tu-do/