Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

HÒA HỢP, HÒA GIẢI - CẦN ĐÔI MẮT MỚI

Hòa hợp - hòa giải cần đôi mắt mới

(TNO) Thời điểm để đặt ra câu chuyện hòa hợp, hòa giải dân tộc đã trôi qua từ lâu. Vấn đề này hiện nay cần được nhìn nhận dưới những góc độ khác. Nhận định này được Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh, nhà ngoại giao lão thành, nguyên thành viên đoàn đàm phán Hiệp định Paris 1973 chia sẻ với Thanh Niên Online. 

Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh - Ảnh: Trường Sơn

Ông Huỳnh lý giải: Lúc đầu đàm phán Paris, tư tưởng của ta là giành thắng lợi, buộc Mỹ rút, lập chính phủ liên hiệp và sau đó chính phủ sẽ đoàn kết toàn dân. Điều này có nghĩa là toàn dân Việt Nam dù phe này phe kia, tập hợp ba lực lượng: lực lượng cách mạng, lực lượng đối địch, lực lượng thứ ba cũng sẽ đoàn kết lại dưới sự lãnh đạo của chính phủ liên hiệp. Lúc đó chưa có khái niệm hòa hợp dân tộc.

Nhưng trong quá trình đàm phán và chiến đấu ta thấy đánh Mỹ khó, đánh thắng Mỹ lại càng khó. Ta đánh lâu dài thì Mỹ cũng có khả năng đánh lâu dài. Lúc đầu mình tính chính phủ liên hiệp nhưng sau sự kiện Mậu Thân 1968 và sau đó năm 1972, ta không có những thắng lợi quyết định.

Vậy phải tính thế nào? Năm 1972 ta mới đề ra đường lối tìm cách mở đường cho Mỹ rút. Ta mới đưa ra khẩu hiệu là “Mỹ rút, Sài Gòn còn, miền Nam giữ nguyên trạng”. Để liên kết các lực lượng miền Nam thì đặt ra vấn đề hòa hợp dân tộc.
Lấy lợi ích dân tộc đặt lên trên hết. Bất cứ thời đại hoàn cảnh nào thì lợi ích dân tộc vẫn là cao hơn cả, có sức mạnh hơn cả
Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh
Vấn đề ấy được đặt ra trong lúc ta tính tới phương án giữ nguyên trạng miền Nam. Vì vậy ta đưa vào dự thảo Hiệp định và bàn kỹ vấn đề hòa hợp dân tộc.

Lúc đầu ta gọi là chính phủ liên hiệp ba thành phần. Chính phủ Mỹ không chấp nhận được vì chính phủ mới có nghĩa là thủ tiêu Sài Gòn. Ta mới hạ thấp xuống là “một chính quyền hòa hợp dân tộc”, gần gần với lập trường của Mỹ. Mỹ đề xuất một “body” - một tổ chức để tổng tuyển cử.

Mỹ dùng chữ “body” thì mình cũng dịu bớt đi, đề xuất là trong lúc chính quyền hai bên tồn tại, thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc để tiến tới tổ chức tổng tuyển cử thành lập chính quyền (đưa thêm khái niệm hòa giải, vì là hai kẻ địch.)

Nhưng Mỹ không chấp nhận chữ “chính quyền”. Chữ “chính quyền” có gì đó mang ý nghĩa thủ tiêu Sài Gòn. Vì thắng lợi của mình năm 1972 cũng có mức độ thôi, chưa thể lấn át Mỹ được, nên ta lấy yêu cầu Mỹ rút là chính. Mỹ nhận rút và quân miền Nam ở lại là đạt yêu cầu cao nhất rồi, ta mới chấp nhận thành lập một hội đồng quốc gia hòa giải, hòa hợp dân tộc. Hiệp định có điều khoản thành lập một hội đồng quốc gia hòa giải hòa hợp dân tộc để tổ chức tổng tuyển cử và đôn đốc thi hành Hiệp định.

Lúc đó hình thành khái niệm hòa giải hòa hợp dân tộc.

Đấy là quá trình đàm phán đi đến hòa giải hòa hợp dân tộc. Ta thấy không có con đường nào khác cả. Bởi vì chúng ta thắng thế nào thì Sài Gòn cũng vẫn sẽ còn. Dù lập chính phủ hai thành phần, ba thành phần hay giữ nguyên trạng thì cũng vẫn phải có hòa giải, hòa hợp. Không có cách nào khác. Không có bên nào thắng bên nào. Thực tế miền Nam có ba lực lượng, hai chính quyền thì phải giải quyết với nhau như vậy.

Nhờ những sách lược mềm dẻo của ta, mà trong đó có việc tạm gác vấn đề xóa Sài Gòn, thực hiện một hình thức hòa giải, hòa hợp dân tộc mà tổ chức ấy chỉ là hội đồng thôi chứ không phải chính quyền, chính phủ gì nên Mỹ chấp nhận.

Nhờ đó mà ký được Hiệp định. Hiệp định Paris là gì? Là một hình thức thỏa hiệp giữa Việt Nam trên đường thắng lợi với Mỹ tuy thua nhưng vẫn đang còn mạnh và chính quyền Sài Gòn còn là một thực thể. Hiệp định Paris là một sự thỏa hiệp “phải chăng”. Vì vậy 4 bên chấp nhận được, Việt Nam chấp nhận được, Mỹ cũng chấp nhận được mở đường cho Mỹ rút, Sài Gòn cũng chấp nhận được.

Bà con Việt kiều về Việt Nam ăn Tết: Nụ cười đoàn viên... - Ảnh: Độc Lập

* Thanh Niên Online: Sau ngày 30.4.1975 vấn đề hòa giải dân tộc đã được thực hiện như thế nào? Có điều gì chúng ta đã làm được và chưa làm được?

- Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh: Ta đã chân thành đấu tranh thi hành Hiệp định Paris 1973, thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc. Ta đã làm việc rất tích cực với các lực lượng thứ ba. Nhưng kết quả rất hạn chế. Ngay đêm Hiệp định có hiệu lực (27.1.1973), chính quyền Thiệu đã cho chiếm Cửa Việt, sau đó ta phản kích lấy lại. Có thể nói là không có lấy một ngày hòa bình. Đã không có hòa bình thì không có điều kiện cho hòa hợp.

Nhưng sau khi ta thắng lợi giải phóng miền Nam thì vấn đề hòa hợp trở thành vấn đề lớn. Thậm chí là cực kỳ lớn.

Nhưng khi ta thắng lợi rồi thì chính sách hòa hợp dân tộc thực hiện được bộ phận thôi chứ chưa được rộng rãi và có kết quả. Phải thẳng thắn nhìn nhận là nhiều chính sách của ta sau giải phóng khá nặng nề với sĩ quan, binh lính chế độ cũ cũng như gia đình họ. Rồi chuyện báo chí Sài Gòn bị đóng cửa hầu hết, tất cả hoạt động kinh doanh của miền Nam bị hạn chế... Sau đó là hợp tác hóa, cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến chuyện hàng chục vạn người bỏ nước ra đi, thành phong trào “thuyền nhân”. Đó là một trang sử đau thương, đen tối của chúng ta. 

Khi tôi sang dự một hội thảo liên quan đến chiến tranh Việt Nam tại ĐH Brown (Mỹ), ban tổ chức có bố trí một chương trình giao lưu với các giáo sư và khoảng 1.000 sinh viên. Tôi nhận được vài chục câu hỏi trong đó có câu hỏi liên quan đến vấn đề này. Một sinh viên hỏi: Thưa ngài đại sứ, Việt Nam đã chiến thắng Mỹ, các ngài coi là “giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc” nhưng tại sao lại có chuyện hàng triệu người bỏ nước ra đi?
Nhóm thứ nhất là cộng đồng những người Việt mà ta gọi là “người Việt yêu nước”. Theo tôi cái chữ ấy nên bỏ đi, không ai lại phân biệt bằng khái niệm “yêu nước” với “không yêu nước”. Lấy gì để xác định yêu nước? Nên nhìn họ như những Việt kiều có quan niệm thuận với trong nước.
Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh
Tôi đã trả lời thế này: Đó là chuyện rất đáng tiếc. Về nguyên nhân thì thứ nhất là trong suốt thời gian chiến tranh, quân đội, các nhà chức trách Mỹ cũng như chính quyền Sài Gòn qua mấy đời tổng thống đều tuyên truyền nếu Việt Cộng về sẽ có nạn tắm máu. Sau 30.4.1975 nhiều người đã lo lắng chuyện “tắm máu” vì vậy việc đầu tiên họ tính là ra đi. Có mấy loại người ra đi: người thuộc chính quyền cũ, những người thấy làm ăn không thuận lợi, người giàu có và sau là những người sợ tắm máu.

Có một số người nữa thấy kinh tế Việt Nam đã nghèo lại còn bị chiến tranh tàn phá nên cũng kiếm đường ra đi.

Một lý do nữa, chúng tôi chiến trận thì biết nhưng làm kinh tế chưa nắm được tình hình, chưa làm tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân nên họ bỏ ra đi.

Nguyên nhân cuối cùng là việc thống nhất đất nước qua con đường chiến tranh thì đã làm tốt nhưng việc tranh thủ lòng người thì chưa làm tốt, chưa thực hiện hòa hợp tốt.

Tôi cũng bổ sung thêm: Dù nguyên nhân gì và những người ra đi khỏi Việt Nam như thế nào, chúng tôi luôn luôn coi họ thuộc dân tộc Việt Nam và luôn luôn sẵn sàng mở cửa để ai về thăm, ai về nước, ai liên lạc lại, cả ba mức đó chúng tôi đều chấp nhận, mở cửa rộng rãi.

Tôi nói vậy, mọi người vỗ tay rất mạnh.

DŨNG CẢM CHÂN THÀNH ĐỂ HÓA GIẢI THÙ HẬN

Đoàn kiều bào do Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn dẫn đầu làm lễ tưởng niệm trong chuyến thăm Trường Sa năm 2012. Ảnh: Quê Hương

TP - “Khi tôi đến thắp nhang tại nghĩa trang Biên Hòa, có nhiều người lên án, đòi đưa tôi ra xử lý. Rằng, tại sao một thứ trưởng đương nhiệm, một quan chức cao cấp lại đến thắp hương tại nghĩa trang của quân đội Sài Gòn trước đây. Nhưng nhờ những hành động như vậy mà nhiều người Việt ở hải ngoại chịu gặp, tiếp xúc với tôi”, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về Người Việt Nam ở Nước ngoài, chia sẻ với Tiền Phong nhân dịp 30/4/2014.

Thù oán kéo dài làm đất nước yếu đi

Đoàn công tác liên ngành sang Mỹ và Canada do Thứ trưởng dẫn đầu trong tháng 3 gặp một số người chống đối khét tiếng. Xin Thứ trưởng cho biết đoàn đã dùng biện pháp gì để thuyết phục họ?

Những người chúng tôi gặp là những người đứng đầu các phong trào chống Cộng, đặc biệt là ở bang Texas và quận Cam ở phía Nam bang California. Thuyết phục những đối tượng đó phải bằng tình cảm, đôi khi cần cả sự dũng cảm khi phải nói những điều rất thật với họ. 

Họ nói thẳng với tôi rằng họ đã theo dõi quá trình hoạt động từ trước đến nay của tôi, thấy tôi là người có tấm lòng, có sự cởi mở chân thành nên họ mới đến gặp, để xem “sự chân thành của ông ra sao”.

Trong số những người đến gặp đoàn chúng tôi có cả Thượng nghị sĩ Canada gốc Việt Ngô Thanh Hải và nhiều người cầm đầu các phong trào cực đoan chống đối từ nhỏ đến lớn. Người trẻ tuổi nhất trong số họ cũng đã trên dưới 60, đều là những người đã trải qua cuộc chiến tranh trong nước, rồi đi ra nước ngoài đã gần 40 năm.

Họ cảm thấy những hoạt động chống đối không đem lại lợi ích gì nhưng họ vẫn chống đối vì cảm thấy không có bờ bến nào khác để neo đậu. Lâu nay chúng ta vẫn giữ quan điểm cứng rắn. Cả hai bên cứng rắn với một bên chống đến cùng còn một bên dứt khoát không bắt tay, không khoan hồng, không hòa giải nên cứ xa cách nhau mãi, tạo ra sự hận thù kéo dài giữa một bộ phận cộng đồng người Việt ở nước ngoài với trong nước. Đất nước chúng ta đã thống nhất về mặt địa lý, nhưng trong thực tế nơi này nơi kia lòng dân vẫn chia cắt.

Chia cắt của thế hệ những người trực tiếp tham gia chiến tranh ở hai chiến tuyến đối lập nhau còn dễ hiểu, nhưng không nên để những thế hệ sau này, những người không trải qua chiến tranh mà chỉ nghe cha ông mình nói lại rồi vẫn giữ hận thù. Mối thù oán mãi mãi sẽ làm đất nước yếu đi.

Cả hai bên từng cứng rắn, nhưng đã và đang bắt tay nhau. Chúng ta cần chính sách hòa hợp, hòa giải như thế nào, thưa ông?

Đế quốc Mỹ đã gây ra bao đau thương tang tóc cho nhân dân hai miền Nam Bắc. Thế mà đối với Mỹ chúng ta còn khép lại quá khứ, khép lại một trang sử rất đau thương để nhìn về tương lai hòa bình, ổn định và hợp tác. Vậy tại sao không tha thứ, hòa hợp với những người cùng một dân tộc, cùng một đất nước?

Có thời kỳ họ dựa vào đế quốc Mỹ và mong muốn Bắc tiến để thôn tính miền Bắc nhưng không làm được vì chính đồng minh của họ là người Mỹ cũng bỏ họ. Chúng ta phải chiến đấu giải phóng đất nước. Đó là cuộc chiến không mong muốn và chúng ta đã giành thắng lợi cuối cùng vào năm 1975. 

Chúng ta đã thống nhất hai miền Nam Bắc. Những người miền Nam ra đi lúc đó là những người trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Họ ra đi vì họ không hiểu chế độ mới sẽ ra sao, họ nghe quá nhiều những điều tuyên truyền bậy bạ ghê gớm về chủ nghĩa Cộng sản. Họ vì lo sợ mà tự ra đi chứ không ai đuổi họ. 

Vì thế hiện nay mới có cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại, riêng ở Mỹ có hơn 2 triệu người. Trong số đó, đại đa số là bà con yêu nước và đã về nước, còn lại rất ít những người vẫn nuôi tư tưởng hận thù từ năm 1975 đến giờ. 

Bởi vì họ không muốn hiểu về thực tế đất nước và quá nặng với quá khứ. Họ không hiểu thực tế, không hiểu sự chính nghĩa của cuộc chiến tranh mà chúng ta đã giành thắng lợi. Cho nên họ mang nặng sự hằn thù cá nhân, cộng với sự bảo thủ, dẫn đến đối kháng với đất nước.

Chính sách hòa hợp, hòa giải cần bước đi cụ thể, cần tình cảm chân thành dành cho bà con cô bác, những người luôn mặc cảm rằng họ đã mất hết sau cuộc chiến, luôn mặc cảm rằng họ không có đất nước, Tổ quốc Việt Nam nữa bởi vì họ đã phải bỏ Tổ quốc ra đi.

Nếu chúng ta không chủ động hòa giải, không chìa tay, chủ động mở rộng vòng tay với tấm lòng nhân ái thì bà con cô bác vẫn mang tư tưởng mặc cảm, tự ti, đây đó có những người tủi thân vì nghĩ rằng họ bị bỏ rơi, nên càng đi vào con đường cực đoan, sẽ càng bảo thủ, cố chấp hơn nữa.

Thứ trưởng nói rằng, để thể hiện sự chân thành cũng cần lòng dũng cảm lớn. Xin ông nói rõ hơn về điều này?

Nếu chúng ta cũng tự ái, tự thỏa mãn với chiến thắng của mình mà không có những bước đi cởi mở thực sự để hòa giải, hòa hợp thì không bao giờ chữa lành được vết thương chiến tranh trong lòng họ. Sự hận thù, nuối tiếc quá khứ, suy nghĩ lệch lạc về chế độ đương đại ở Việt Nam đã khiến họ càng trở nên cực đoan, bảo thủ.

Một khi họ đã hiểu, đã thay đổi thì ai cũng muốn có cội nguồn, trong sâu thẳm của họ đều có hai chữ Việt Nam. Nhưng để họ trở về như thế nào để họ cảm thấy không tủi thân, không áy náy thì dứt khoát chúng ta phải đặt cho họ nền móng để cho họ trở về với danh dự, với tấm lòng yêu thương đất nước, trở về với mong muốn hòa giải, hòa hợp thực sự.

Nếu chúng ta áp đặt, khiên cưỡng, thì sẽ không khiến họ phục. Chúng ta đã làm được rất nhiều việc, như ở nghĩa trang Biên Hòa. Hiện nay rất nhiều người thiếu thông tin. Vừa rồi tôi phê phán ông Nguyễn Tấn Lạc, Chủ tịch của cái gọi là Hội Cộng đồng Việt-Mỹ Nam California. 

Ông ta không hiểu nên vẫn nói rằng, chúng ta ngăn cấm, cản trở ở nghĩa trang Biên Hòa, nhưng thực tế nghĩa trang này đang trở nên ngày càng khang trang, đẹp đẽ nhờ chúng ta có chính sách cởi mở.

Tôi là một trong những người tiên phong. Khi tôi đến thắp nhang tại nghĩa trang Biên Hòa, đã có nhiều người lên án, đòi đưa tôi ra xử lý, rằng tại sao một thứ trưởng đương nhiệm, một quan chức cao cấp lại đến thắp hương tại nghĩa trang của quân đội chính quyền Sài Gòn trước đây. Nhưng nhờ những hành động như vậy mà nhiều người Việt ở hải ngoại chịu gặp, tiếp xúc với tôi. 

Nếu chúng ta không dám làm những việc dũng cảm mà chỉ nói theo cứng nhắc thì trong nước cũng ít người nghe, chứ không nói đến bà con ở hải ngoại.

Quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo

Theo ông, còn những vấn đề gì mà cộng đồng người Việt ở nước ngoài nói chung, những người còn giữ tư tưởng hận thù nói riêng vẫn quan ngại?

Sức sống Trường Sa 

Một trong những vấn đề bà con rất quan tâm, kể cả những người còn giữ tư tưởng hận thù, là quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo của chúng ta. Chính vì vậy, đã ba năm nay chúng tôi tổ chức ba đợt đưa kiều bào ra thăm Trường Sa. Năm nay, chúng tôi muốn có bước đi cụ thể để chứng minh cho bà con cô bác thấy rằng, chúng ta đang mong muốn hòa hợp, hòa giải thực sự. 

Chúng ta mong muốn đánh giá mọi vấn đề một cách khách quan, công bằng, nên chúng tôi đã quyết định lần này sẽ đưa bà con cô bác ra thăm Trường Sa, trong đó chúng tôi đã vận động một số người chống đối quyết liệt để họ ra Trường Sa tận mắt chứng kiến thực tế biển đảo chúng ta đang giữ được, thực tế hằng ngày đang diễn ra trên các hòn đảo thuộc chủ quyền của chúng ta, thực tế quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo đến cùng. Đó là sức mạnh của lực lượng vũ trang chúng ta, là tinh thần quả cảm, sẵn sàng hy sinh bảo vệ đất nước, biển đảo của Tổ quốc. 

KHỞI TỐ BẮT GIAM 2 CẦU THỦ VISSAI NINH BÌNH

Khởi tố bắt tạm giam 2 cầu thủ The Vissai Ninh Bình

Thế Long - theo Trí Thức Trẻ 

Trần Mạnh Dũng (áo đỏ). Ảnh TTX

(Soha.vn) - Hai người vừa bị khởi tố bắt tạm giam là tiền vệ Trần Mạnh Dũng (Nam Định) và thủ môn Nguyễn Mạnh Dũng (Hải Phòng).

Theo nguồn tin riêng của PV Báo điện tử Trí Thức Trẻ liên quan đến vụ cá cược bóng đá xảy ra tại CLB The Vissai Ninh Bình, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Ninh Bình vừa ra quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam hai cầu thủ, đó là tiền vệ Trần Mạnh Dũng (Nam Định) và thủ môn Nguyễn Mạnh Dũng (Hải Phòng). Hai người này cùng bị khởi tố về tội đánh bạc.

Lệnh bắt tạm giam là 3 tháng để mở rộng điều tra vụ án.

Trước đó, cổng thông tin điện tử tỉnh Ninh Bình cho biết theo kết quả điều tra, ngày 15/3 (3 ngày trước khi CLB The Vissai Ninh Bình gặp với đội Kelantan, Malaysia trong khuôn khổ vòng bảng AFC Cup 2014), tại khách sạn The Vissai Ninh Bình, tiền vệ Trần Mạnh Dũng đã rủ thủ môn Nguyễn Mạnh Dũng cùng hậu vệ Lê Quang Hùng và Lê Văn Duyệt tham gia cá độ.

Ngày 17/3, tại khách sạn ở Malaysia, Trần Mạnh Dũng rủ thêm một số cầu thủ khác tham gia với tổng số tiền cá độ là 2 tỷ đồng, nếu thua thì chia đều số tiền trên để trả, nếu thắng thì chia đều cho các thành viên chung độ.

Sau khi thống nhất, Trần Mạnh Dũng và Nguyễn Mạnh Dũng dùng điện thoại di động (lắp sim của Malaysia) liên lạc với Đào Đức Lợi (trú tại Hải Phòng) để đặt độ và được Lợi chấp nhận số tiền 1,02 tỷ đồng.

Kết thúc trận đấu (diễn ra vào ngày 18/3), CLB V.Ninh Bình thắng Kelantan với tỷ số 3-2 và các cầu thủ thắng cá độ được nhận số tiền 800 triệu đồng.

Ngày 19/3, khi đội về TPHCM, Trần Mạnh Dũng gọi điện yêu cầu Lợi chuyển tiền thắng độ thông qua người bạn của thủ môn Nguyễn Mạnh Dũng tại TPHCM để tránh bị phát hiện.

Sau khi nhận được 800 triệu đồng, Trần Mạnh Dũng chia số tiền cho những cầu thủ tham gia cá độ (người cao nhất được 85 triệu đồng, người thấp nhất được 75 triệu đồng; 1 cầu thủ không tham gia nhưng biết vụ cá độ được chia 20 triệu đồng…).

THƯƠNG LÁI TRUNG QUỐC - ĐỂU CÓ HỆ THỐNG



Không phải đợi tới bấy giờ người VN mới biết những trò đểu của những anh con buôn láng giềng Trung Quốc (TQ). Những chuyện như mua móng bò với giá tưởng như không bao giờ có khiến người nông dân vùng biên giới điêu đứng vì làm thịt hết bò, không còn phương tiện để cày cấy sinh nhai. Chuyện lấy cớ này cớ kia để làm hàng đoàn xe vận tải chở dưa hấu, rau quả sang TQ bán, nằm la liệt ở cửa khẩu làm mọi thứthối rữa chỉ còn nước đổ đi. Và đầy rẫy những chuyện như thế đã từng xảy ra. Ở đây, tôi tạm thời tổng kết lại những trò lừa đảo trên toàn lãnh thổ VN, mỗi nơi một khác.

Không phải là đểu vặt mà là đểu có chính sách, có đường lối rõ ràng

Buồn một nỗi là người nông dân của VN vẫn chưa nhìn nhận ra trò đểu ấy không phải là đểu vặt mà là đểu có hệ thống. Bởi những trò đểu vặt dàn trải khắp nơi, bất cứ thứ gì dù là củ khoai, bụi khóm (dứa), nải chuối, trái dừa cho đến con cua cùng các loại hải sản, hạt gạo cũng bị bọn thương lái TQ dùng những thủ đoạn tinh quái lừa dân, không thể dùng chữ gì đúng hơn là “cực đểu”.

Chính sách “đểu có hệ thống” này song song với những thủ đoạn gây hấn trên biển, thuê rừng trồng trọt để “ăn sâu ở lâu”, đồng thời quấy rối trên khắp các vùng thôn quê, TQ đã chứng tỏ dã tâm của mình đối với người bạn láng giềng VN.

Điều đáng nói hơn nữa là các cấp chính quyền ở tất cả các địa phương cũng quá thờ ơ với những hành động xảo trá này! Nói đến tất cả các địa phương là nói đến cả nước tức là có trách nhiệm của các bộ, các ngành có trách nhiệm ở cơ quan trung ương. Không thể xem như đó chỉ là những vấn đề riêng của từng địa phương mà không chịu nhìn ra đó là cả một chủ trương lớn, phá hoại ngấm ngầm nền kinh tế quốc gia, đẩy nông dân vào con đường đói rách lâu dài. Bọn thương lái Trung Quốc (TQ) cứ việc âm thầm tung hoành, trong đó phải kể đến có sự tiếp tay đồng lõa của một sốngười Việt cũng tinh quái không kém. Tìm mọi kẽ hở của pháp luật chạy chọt cho bọn thương lái, lợi dụng đúng tâm lý, tình cảm, hoàn cảnh của người dân trong từng vùng nông thôn VN. Mỗi huyện, mỗi xã có nguồn sản xuất khác nhau, có hoàn cảnh khác nhau, chỉ người VN mới biết rõ tình hình vùng đó như thế nào. Những người VN hợp tác với bọn thương lái TQ hầu hết chỉ vì hám lợi, bị chúng lừa gạt, nhưng cũng không thể không kể đến những kẻ “nằm vùng”, đi theo quan thầy TQ, biết rõ đó là cái bẫy song vẫn quay lưng lại phản bội đồng bào mình.

Hãy thử nhìn qua vài thủ đọan của bọn thương lái TQ trong một số “thương vụ đểu” tại khắp Trung – Nam - Bắc VN.

Đặt mua thật nhiều rồi biến

Thoạt tiên, các thương lái Trung Quốc thu mua khóm với giá cao, họ “dỗ ngon dỗ ngọt” rằng khóm ở nước họ không ngọt bằng khóm ở những vùng nhiễm phèn nặng như khu vực Đồng Tháp Mười cho nên đắt họ cũng mua. Ông Nguyễn Tấn Hoàng (ở thị trấn Mỹ Phước) cho biết thương lái Trung Quốc không cần đợi khóm chín mà còn xanh cũng mua, miễn to là được.

Nhiều thương lái Trung Quốc xuất hiện mua khóm loại 1 (từ 1 kg/trái trở lên) với giá 4.000đồng/kg. Thấy dễ kiếm lời, một chủ vựa khóm ở thị trấn Mỹ Phước, huyện Tân Phước đã thu gom được 2 container (hơn 42 tấn) để bán lại cho thương lái Trung Quốc. Tuy nhiên sau đó, thương lái Trung Quốc không mua nữa với lý do có tình trạng khóm nhỏ dưới 1 kg/trái trộn vào khóm loại 1.

Ông Thuận, một người thu gom khóm, than thở: “Các thương lái Trung Quốc chỉ đặt cọc 10 triệu đồng mà yêu cầu chúng tôi thu gom cả container khóm, giờ họ đi rồi thì biết bán cho ai?”. Rất nhiều người chạy đôn đáo khắp vùng Tân Phước hỏi mua khóm loại 1để xuất khẩu sang Trung Quốc và cũng bị các thương lái Trung Quốc “chơi khăm” khi biến mất mà không có lý do.

Hơn thế, trong những ngày thương lái Trung Quốc thu mua khóm, số khóm nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy chế biến như Công ty Rau quả Tiền Giang giảm tới 50%, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc sản xuất. Khi bị thương lái TQ lật lọng thì những người thu gom khóm lâm vào cảnh dở khóc dở cười, còn nông dân cũng méo mặt vì trướcđó đã thu hoạch khóm xanh (chưa chín) để bán. Có khi nhà máy đành ngồi chơi đợi nguyên liệu. Ác ý của bọn thương lái này thật rõ ràng. Lừa cả nông dân, làm hại cả nhà máy, sao không cơ quan nào biết nhỉ?

Thu mua cua, hải sản và khoai lang, chuối già cũng với chiêu độc đó

Tại Đà Nẵng xuất hiện các thương lái người Trung Quốc trực tiếp đi thu mua hải sản của ngưdân địa phương với giá cao, sau đó thuê nhân công sơ chế rồi vận chuyển sang Trung Quốc tiêu thụ. Họ mua cả tôm bơm tạp chất. Tuy nhiên, được một thời gian ngắn, hầu hết các thương lái Trung Quốc “một đi không trở lại” khiến cho giá các mặt hàng hải sản bị rớt thê thảm. Ngồi chờ “các ông chủ TQ” đến mua, mỏi mòn như hòn vọng phu, đành bán tống bán tháo vậy, không bán được, khóm hư thối thì thả trôi sông.

Hàng chục thương lái Trung Quốc đang núp bóng khách du lịch thu mua cua ở Cà Mau và có người đã bỏ trốn, mang theo số nợ tiền tỉ của nông dân địa phương.

Ngày 6.5, công an thị trấn Năm Căn, (Cà Mau) cho biết: “Hiện đã có nhiều đơn tố cáo đối với Wang Juanmei, tự A Kiều (SN 1974), một thương lái quốc tịch Trung Quốc đếnđịa phương thu mua cua và biến mất cùng món nợ hơn 10 tỉ đồng”.

Riêng ở địa bàn Huyện Năm Căn hiện có 20 thương lái Trung Quốc (chưa tính những thương láiđến, đi không trình báo), có lúc lên đến 60 -70 người và họ đều sử dụng hộchiếu du lịch, tạm trú rồi đi thu mua cua.

Ở huyện Cái Bè - Tiền Giang, nhiều người đã vào tận nhà vườn thu mua chuối già với giá caođể xuất khẩu qua Trung Quốc. Tuy nhiên, họ cũng chỉ thu mua được một thời gian rất ngắn rồi bỏ, gây tổn thất lớn cho nhà vườn vì đã đốn bỏ các cây ăn trái đểtrồng chuối. Vườn đã mất hoa màu, phải làm lại từ đầu! Vốn liếng ít, lại đi vay nợ, đói rách trong một thời gian lâu dài vì trồng cây ăn trái vài năm mới mong có lời. Thâm độc đến thế là cùng.

Cách thống trị thị trường ngay tại quê hương dừa Bến Tre

Ban đầu các thương lái Trung Quốc đến từng gia đình sản xuất mua thạch dừa thô với giá cao. Họ mở đại lý thu mua ồ ạt, dẫn đến cơn sốt thạch dừa tại địa phương. Thấy có lời, nhiều người dân bắt đầu học hỏi quy trình để làm thạch dừa xuất khẩu khiến nhiều cơ sở sản xuất thạch dừa thành phẩm ở Bến Tre phải điêu đứng vì không có thạch thô để chế biến. Chỉ trong một thời gian ngắn, thương lái Trung Quốc đã thống lĩnh thị trường thạch dừa ở Bến Tre.

Ngay sau khi chi phối thị trường, thương lái Trung Quốc hạ giá thạch dừa xuống tận đáy. Từchỗ mua thạch thô giá 3.950 đồng/kg, đến nay họ đã hạ giá chỉ còn 1.300đồng/kg. Đến lúc này, người sản xuất thạch dừa ở Bến Tre rơi vào thế “sống dởchết dở” vì lỡ đầu tư sản xuất rồi, làm ra hàng hóa không biết bán cho ai, vậy sản xuất làm gì đây?

Trong một ngày, chủ tịch xã Mỹ Thạnh An (TP.Bến Tre) phải ký trên 30 đơn xin tạm nghỉkinh doanh của các nhà sản xuất thạch dừa trong xã, với lý do không tiêu thụ được sản phẩm. Trước đó, xã này có 17 cơ sở khác xin nghỉ. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, địa phương nổi tiếng với mặt hàng thạch dừa chỉ còn 20/67 hoạt động, tức là có đến 70% cơ sở “chết đứng”. Không chỉ Mỹ Thạnh An, người sản xuất thạch dừa tại nhiều địa phương ở Bến Tre cũng lao đao bởi giá thạch dừa xuống thấp, rơi vào cảnh lỗ lã do bị ép giá.

Làm mất uy tín thương hiệu quốc gia.

Sau một loạt các hành vi cạnh tranh thương mại xảo quyệt trong nông, lâm và thuỷ hải sản và gần đây nhất các thương nhân Trung Quốc lại đang tiếp tục làm ảnh hưởng đến mặt hàng gạo – mặt hàng sản xuất chủ lực của Việt Nam.

Thương lái TQ“xúi” doanh nghiệp (DN) trong nước làm ăn gian lận, trộn gạo thường với gạo thơm rồi bán với giá gạo thơm... Họ mang ra bán ở các nước khác với tên Gạo Việt Nam. Ngay cả mặt hàng rất mạnh của VN là cà phê, hạt điều cũng bị con buôn TQ lũng đoạn. Đến mức này thì câu chuyện không còn dừng lại ở việc “buôn gian, bán lận” mà là vấn đề uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp, của gạo VN trên thếgiới. Bởi VN là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Làm mất uy tín thương hiệu của VN là đánh một đòn rất nặng vào nền kinh tế của VN.

Đến trò “cắm chốt” còn ngoạn mục hơn

Ngoài nững trò mua bán “đểu”, dư luận hiện nay cũngđã và đang còn ầm ỹ về vụ người TQ “cắm chốt” ở VN mà các cơ quan đều không biết. Hẳn chúng ta chưa quên vụ hàng ngàn lao động Trung Quốc làm việc “chui”tại công trình Nhà máy Đạm Cà Mau và hơn 200 lao động TQ có mặt tại Khu công nghiệp Long Giang thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang, làm hư con gái mới lớn và quyến rũ cả một số cô đã có chồng làm tan nát nhiều gia đình đang êm ấm khiến quê nghèo trở nên xáo trộn. Nay lại đến chuyện người TQ nuôi cá bè ở Phú Yên và Cam Ranh. Xin nói đến chuyện ở Phú Yên trước.

Ông Trần Xuân Ngãi, Chủ tịch UBND xã Hòa Xuân Nam thuộc huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên, cho biết vì Vũng Rô là vùng được quy hoạch mở rộng cảng và phát triển công nghiệp hóa dầu nên không có tổ chức, cá nhân nào được cấp phép nuôi trồng thủy sản. Còn ông Ông Phạm Minh Chu, Chủ tịch UBND huyện Đông Hòa, khẳng định. “ UBND huyện Đông Hòa cũng không cấp phép nuôi trồng thủy sản và cho thuê mặt nước ởVũng Rô đối với bất cứ tổ chức, cá nhân nào”

Vậy tại sao lại có những người TQ ung dung làm bè nuôi cá tại “vùng cấm địa” này? Họ từtrên trời rơi xuống à? . 

Dùng người Việt làm lá chắn

Việc xuất hiện những bè nuôi cá của người Trung Quốc ở Vũng Rô từ gần 10 năm nay đã gây nhiều bất bình đối với người dân địa phương. Khi tàu thuyền của ngư dân chạy gần bè cá của người Trung Quốc thì lập tức bị nhân công dọa đánh.

Thật ra từnăm 2005 đến nay, UBND tỉnh Phú Yên đã cấp phép hoạt động cho 10 người Trung Quốc với vai trò chuyên gia hướng dẫn kỹ thuật nuôi cá mú và cá bóp ở Vũng Rô. Tuy nhiên, ông Đào Thái Cường, trưởng thôn Vũng Rô, cho biết những chuyên gia này chính là chủ của các cơ sở nuôi cá mú và cá bóp với quy mô lớn tạiđây. Ông Cường tiết lộ: “Họ đã thuê người Việt Nam đứng tên lập doanh nghiệp để nuôi cá”. Theo ông Cường, có tất cả 5 bè cá tại bãi Chùa, bãi Hương và bãi Lau (thôn Vũng Rô) do người Trung Quốc làm chủ với quy mô mỗi bè từ 100 đến 200 lồng.

Theo UBND xã Hòa Xuân Nam, ngoài một số cơ sở tư nhân có chuyên gia Trung Quốc đứng đằng sau, còn 3 doanh nghiệp VN nuôi thủy sản tại Vũng Rô do người Trung Quốc trông coi là Công ty Thuận Thành, Doanh nghiệp tư nhân Mỹ Ngọc và Doanh nghiệp tưnhân Vĩnh Tín. Các doanh nghiệp và cá nhân này nuôi thủy sản trái phép ở Vũng Rô 7 năm nay nhưng chính quyền địa phương lại làm ngơ. Ông chủ tịch UBND xã Hòa Xuận Nam giải thích vì không được cấp phép nên UBND xã Hòa Xuân Nam không thểquản lý, thu thuế đối với các doanh nghiệp và cá nhân này.

Như vậy là tỉnh Phú Yên cấp giấy phép tràn lan, còn cái mác “chuyên gia” chỉ là vỏ bọc cho những ông chủ TQ ung dung nuôi cá. Địa phương không quản lý được (?!).

Người Việt “giúp” người TQ như thế nào?

Công ty Thuận Hoàng do bà Bùi Thị Bích Ly làm giám đốc đã đầu tư bè nuôi hơn 100 lồng cá ởvùng biển Vũng Rô, xã Hòa Xuân Nam, H.Đông Hòa (Phú Yên). Theo bà Ly, trước đây bà chỉ xin UBND tỉnh Phú Yên cấp phép cho em rể là người Đài Loan làm hướng dẫn kỹ thuật nuôi cá mú, cá bóp trên bè của bà tại Vũng Rô.

Nhưng khi phóng viên đưa ra thông báo của UBND tỉnh Phú Yên cấp phép cho 2 người Trung Quốc là ông Cheng Po-Jui (26 tuổi) và Liu Cheng-Han (29 tuổi) vào năm 2010, thì bà Ly thừa nhận là đã xin giúp cho 2 người này để được vào khu vực Vũng Rô, chứkhông phải là công ty của bà thuê. Bà Ly nói: “Công ty của tui chỉ xin UBND tỉnh Phú Yên cấp phép giúp cho họ làm việc tại vùng biển Vũng Rô nên không có trả lương hay tiền công gì cả. Tui chỉ giúp họ mà thôi”.

Ngoài ra, bà Ly còn thừa nhận cũng trong năm 2010 đã làm thủ tục xin UBND tỉnh Phú Yên cấp phép cho ông Sun Kun Tien (37 tuổi, quốc tịch Trung Quốc) làm hướng dẫn kỹthuật nuôi cá mú cho công ty, nhưng thực chất nhằm giúp ông này có giấy phép hoạt động nuôi thủy sản tại Vũng Rô. Rõ ràng, 3 người Trung Quốc này không phải là chuyên gia kỹ thuật mà chỉ là những người được Công ty Thuận Hoàng xin cấp phép hộ để vào Vũng Rô nuôi cá.

Khi hỏi: “Họkhông phải là người do công ty của bà thuê nhưng tại sao lại làm thủ tục xin UBND tỉnh cấp phép?”. Bà Ly huơ tay: “Đây là chuyện tế nhị, tui không nóiđược”.

Chuyện “tếnhị” là chuyện gì, chắc bạn đọc thừa biết rồi. Đó là con đường vòng vèo giữa sựmóc nối, có đi có lại của kẻ xin và người có quyền cho, xảy ra hà rầm tại VN.

Tại vịnh Cam Ranh, người TQ cũng đóng bè nuôi cá

Việc xảy ra từ nhiều năm rồi, đến nay UBND tỉnh Khánh Hòa mới có văn bản yêu cầu UBND TP Cam Ranh kiểm tra và báo cáo về nội dung liên quan đến công tác quản lý người nước ngoài trên địa bàn. Trước đó, tại địa phương này đã xuất hiện tình trạng một số người Trung Quốc làm lồng bè nuôi cá gần cảng Cam Ranh của Vùng 4 Hải quân từ nhiều năm nay.

Theo người dân ở đây, bè cá của người Trung Quốc cách cảng Cam Ranh vài trăm mét về phíaĐông Bắc với gần 100 lồng nuôi.

Ông Lê Văn Dũng, Phó chánh Thanh tra Sở Nông Nghiệp Phát Triển Nông Thôn (NN-PTNN) tỉnh Khánh Hòa, khi đi thanh tra môi trường trên các lồng bè ở TP Cam Ranh, cơ quan này đã phát hiện nhiều sai phạm tại một lồng bè của người Trung Quốc. Ông Dũng cho phóng viên báo chí biết: “Chủ bè đã không trả lời được câu hỏi cá giống lấy từ đâu? Hàm lượng thức ăn ra sao? Có được phép lưu hành tại Việt Nam không?”.

Quan chức đầu tỉnh đọc báo mới giật mình

Cho đến nay những người có trách nhiệm tại Phú Yên và Cam Ranh còn loanh quanh đổ lỗi cho nhau. UBND tỉnh nói là “theo đề nghị của các cơ sở nuôi trồng thủy sản”. Còn việc để xảy ra tình trạng người Trung Quốc nuôi cá trái phép, có thể có sự tham mưu của Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên. Thế nhưng, ông Nguyễn Tri Phương, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Phú Yên, phủ nhận: Chưa từng thấy giấy tờ nào gửi đến Sở NN-PTNT đềnghị cấp phép hoạt động cho các chuyên gia Trung Quốc nuôi trồng thủy sản ởVũng Rô… Cứ đổ lỗi loanh quanh như thế nên chẳng anh nào có lỗi cả. Và đến nay các tỉnh và TP này lại đang ca bài “sẽ kiểm tra và xử lý”’!

Xin hãy đọc câu trả lời của ông Huỳnh Tấn Việt, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Phú Yên, với phóng viên báo chí vào chiều ngày 6-6 vừa qua. Ông Việt nói: “…Làm không đúng thì phải xử lý. Nói thật, tôi cũng giật mình khi đọc báo thấy có chuyện này”.

Những bè cá của người TQ to tướng sờ sờ trước mặt hàng chục năm mà quan chức tỉnh đọc báo mới “giật mình” thì lạ thật!

Đến đây tôi xin nhường cho ý kiến bày tỏ nỗi bất bình của người dân:

Bạn Bình Bể viết trên báo Người Lao Động:

“Một căn nhà nhỏ trong hẻm sâu, gia chủ chỉ cần thuê công nhân sửa chữa nhỏ, lập tức có nhân viên của phường, thành phố đến làm việc ngay. Một căn nhà bề thế trên một conđường lớn công nhân đang xây dựng tấp nập, ấy vậy mà khi báo chí lên tiếng có vấn đề thì từ trên xuống dưới, từ nhỏ đến lớn đều ú a, ú ớ như người còn đang mê ngủ chẳng biết gì.- Chuyện này cũng vậy, mấy cái bè nuôi cá to đùng (to hơn cả mấy cái bè của chủ nhà) của ông bạn hàng xóm ngang nhiên đem vào đất nhà mìnhđể khai thác, rồi tự tiện đem tàu đến thu hoạch trước mũi chủ nhà vậy mà vẫn im lặng như tờ. Đến khi báo chí phát hiện, phanh phui thì lại lúng ta lúng túng như gà mắc tóc, rồi thì ông đổ cho bà, bà bảo tại ông...”

Bạn Nguyễn Văn Vũ viết trên báo Thanh Niên: “Lại 1 quả bom nữa được gài. Chỉ thấy tội cho các cấp quản lý của mình là rất ngây thơ”.

Văn Quang 15-6-2012

NHỮNG CÁNH ĐỒNG ĐẸP MÊ HỒN XỨ BẮC

Những cánh đồng đẹp mê hồn của xứ Bắc

Được thiên nhiên ưu ái và ban tặng với những vẻ đẹp rất riêng, rất độc đáo của miền đồi núi xa xăm, xứ Bắc với vô số cảnh đẹp hữu tình, làm xuyến xao với những du khách đã một lần đến đây, làm nao lòng những du khách mong muốn đến đây; dù chỉ một lần,… Xứ Bắc – nơi dâng trào cảm xúc của bạn, nơi mang bạn đến gần với thiên nhiên, nơi cho bạn những cảm xúc khó tả và khó quên nhất, nơi trải nghiệm lý tưởng của bạn.


Cánh đồng lúa Ninh Bình

Là một trong những điểm đến khá thú vị của vùng Tây Bắc, Ninh Bình với danh thắng Tam Cốc – Bích Động sẽ mang đến cho bạn những trải nghiệm khác biệt khi bạn đến với nơi đây, đến để cảm nhận tình đất và tình người nơi đây.

Cứ vào khoảng cuối tháng 5 đến đầu tháng 6, khi cả đất trời ninh bình rực rỡ sắc vàng của những cánh đồng lúa chín, cũng là lúc vùng đất Ninh Bình trở nên tuyệt đẹp, tựa như một bức tranh sơn thủy hữu tình sống động.

Một buổi chiều tà, lang thang trên những cánh đồng lúa mênh mông và xa tít, ngắm nhìn cánh đồng lúa vàng óng lung linh dưới ánh hoàng hôn xinh đẹp, chút cảm giác bình yên và lắng động trong tâm hồn ùa về, làm khuấy động cả một trái tim xúc cảm…

Mù Cang Chải - vẻ đẹp xao lòng mùa lúa chín


Được mênh danh là “thiên đường của ruộng bậc thang Việt Nam”, Mù Cang Chải – cái tên gợi nên một miền xa xôi giờ đây đã trở nên quen thuộc, cuốn hút biết bao phượt thủ cũng như khách du lịch ghé chân.

Như nàng sơn nữ dịu dàng và thướt tha dưới nắng vàng rực rỡ, cứ mỗi độ thu về, Mù Cang Chải lại khoác lên mình một tấm áo xinh đẹp và lộng lẫy. Những thửa ruộng bậc thang “sóng sánh” trong sắc vàng mùa lúa chín, những sườn đồi uốn lượn chỉ toàn màu vàng ươm của lúa chín, và… thấp thoáng đâu đó là những mái nhà đơn sơ và thanh bình được bao bọc bởi những cánh đồng lúa vàng rực…

Hoa cải Mộc Châu - nơi vẻ đẹp lãng mạn đi vào lòng người

Khi những tia nắng vàng dịu dàng bắt đầu chiếu rọi trên khắp vùng trời Tây Bắc, khi cái lạnh se se của khí trời nơi cao nguyên đã dần hiện diện đâu đó, cũng là lúc Mộc Châu khoác lên mình chiếc áo lộng lẫy và tinh khôi của mùa hoa cải.

Vào mùa hoa cải nở, cao nguyên Mộc Châu toát lên vẻ đẹp thơ mộng đến ngỡ ngàng, khi khắp đất đất trời Mộc Châu được phủ lên một màu trắng tinh khôi và thuần khiết của những luống hoa cải. Những con đường mòn nhỏ và ngoằn ngèo đưa bạn xuyên qua những cánh đồng hoa cải mênh mông, đưa bạn đến với nơi màu trắng của hoa cải quyện với màu xanh trong của đất trời, đưa bạn về với nơi dâng trào xúc cảm và xao xuyến trong tâm hồn,…

MÊNH MANG NON NƯỚC BA BỂ

Mênh mang non nước Ba Bể

Với cảnh sắc hoang sơ và gần gũi, tĩnh lặng, hồ Ba Bể là một trong những điểm đến giúp bạn trút bỏ mọi muộn phiền, ồn ào nơi thành thị.

Từ thị trấn chợ Rã, huyện Ba bể, Bắc Kạn đổ hết con dốc ở Đồn Đèn là đến rừng quốc gia Ba Bể. Qua cổng kiểm tra vé và dãy nhà nghỉ của Ban quản lý rừng, xuôi theo con đường trải nhựa, ẩn khuất sau những tán cây rừng, hồ Ba Bể dần dần hiện ra trong màu xanh ngọc bích của nước hồ mênh mang, xa xa ẩn hiện lớp sương mờ bồng bềnh quanh núi.


Hồ Ba Bể nằm trong khuôn viên của xã Nam Mẫu, bao gồm hai thôn Bó Lù, Pác Ngòi, nơi những cư dân người Tày sinh sống. Từ bến đò Buốc Lốm sang bến đò chính, du khách sẽ xuống đò vào bản Bó Lù. Khác với những điểm du lịch khác, bến đò vẫn giữ nét hoang sơ, bình yên. Những con thuyền nhỏ thảnh thơi chờ chở khách qua hồ.


Là một trong 20 hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất thế giới, nằm giữa những dãy núi đá vôi với mặt nước trong xanh, phẳng lặng, hồ Ba Bể như một bức tranh, là tấm gương in đậm bóng núi, mây trời…


Hồ được gọi là Ba Bể vì có ba nhánh sông lớn là Pé Lầm, Pé Lù, Pé Lèng, hợp lưu lại mà thành. Hồ có tổng diện tích 6.000 m2, độ sâu từ 25 - 35m, ở độ cao 150 m so với mực nước biển. Xung quanh là những cánh rừng nguyên sinh và dãy núi đá vôi bao bọc. Gắn với hồ là quần thể du lịch Ao Tiên, đảo Pò Giả Mải (đảo Bà Góa), động Puông, thác Đầu Đẳng… đang chờ du khách thích mạo hiểm đến khám phá.

LÀM BỘ TRƯỞNG NGÀY CÀNG KHÓ

Làm bộ trưởng ngày càng khó

Đinh Duy Hòa

VNN - Điều khiến cho làm bộ trưởng thời nay ngày càng khó hơn - một khi bộ trưởng trình làng, hoạt động thì cả xã hội, người dân đều có cơ hội xem xét, đánh giá. Xã hội ngày càng cởi mở hơn, công khai hơn, thông tin ngày càng cập nhật và đa chiều hơn. Bộ trưởng đi đâu, làm gì, phát ngôn ra sao, chỉ ít phút sau cả xã hội đều tỏ.

Hãy xem phản ứng, bình luận của dân chúng sau các phiên trả lời chất vấn của bộ trưởng tại Quốc hội là rõ. Có bộ trưởng hỏi A lại trả lời B, vòng vo tam quốc. Năng lực hay kém năng lực thế là quá rõ. Thể chế, chính sách do các vị tư lệnh ngành tham mưu để Quốc hội, Chính phủ quyết đáp đến lúc triển khai gây hậu quả nghiêm trọng thì lúc đó bộ trưởng cũng lĩnh đủ.

Cũng giống như các nước, bộ trưởng phụ trách các lĩnh vực như giao thông, giáo dục, y tế… ở ta đang ngày càng đối mặt với xã hội, với người dân nhiều hơn bởi một lẽ hết sức đơn giản: những việc các vị này làm tác động trực tiếp tới đời sống của mọi người dân trong xã hội.

Và chính trong một môi trường xã hội đã thay đổi như vậy, vị bộ trưởng nào không ý thức được điều đó, không có những thay đổi thực sự trong quan niệm, tư duy hành động phục vụ dân thì vị đó sẽ không thể tại vị ít nhất là theo quan niệm của dân chúng.

Từ chức do bất đồng chính kiến

Nếu có sự phân loại từ chức thì đây có thể là nhóm đầu tiên. Ví dụ tiêu biểu ở đây chính là trường hợp Chu Văn An dâng thất trảm sớ lên vua Dụ Tông triều nhà Trần đề nghị vua chém 7 viên quan gian nịnh trong triều. Vua Dụ Tông không nghe, Chu Văn An từ quan về dạy học. Chu Văn An không thể tiếp tục làm quan dưới một ông vua như vậy, với 7 vị quan không đủ tư cách đạo đức, phẩm chất làm quan. Nói theo ngôn ngữ thời nay là sự bất đồng chính kiến trong sử dụng quan lại, trong đường lối cai trị của triều đình.

Nền chính trị đương đại của một số nước cũng thỉnh thoảng chứng kiến việc từ chức của một số chính trị gia theo kiểu này. Một vài bộ trưởng đến một lúc nào đó nhận thấy mình không thể tiếp tục đi theo đường lối của đảng cầm quyền đã tuyên bố từ chức.

Từ chức theo kiểu “văn hóa từ chức”

Tháng 6/2012, Bộ trưởng Thương mại Mỹ John Bryson đã từ chức sau khi gây tai nạn ô tô rồi bỏ chạy, va tiếp vào xe khác. Chủ tịch Hạ viện Australia Peter Slipper tuyên bố từ chức tháng 9/2012 vì bê bối tình dục đồng tính với một đồng nghiệp. Yongyuth Wichaidit từ chức Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Nội vụ Thái lan vì vụ bê bối liên quan đến cáo buộc nhận hối lộ. Thủ tướng Anh Tony Blair tuyên bố từ chức tháng 5/2007…

Còn rất nhiều các vụ từ chức theo dạng này. Xét vẻ bề ngoài cứ tưởng đây là tự từ chức, là quyết định từ nội tâm, từ lương tâm, trách nhiệm của cá nhân đó và dễ dẫn đến coi đây là văn hóa từ chức. Song, về cơ bản không hẳn là như thế!

Đằng sau mỗi tuyên bố từ chức có vẻ nhẹ nhàng là các cuộc đấu tranh quyết liệt trong ban lãnh đạo đảng cầm quyền. Cá nhân liên quan nếu không rút lui khỏi vũ đài chính trị thì uy tín của đảng sẽ giảm sút nghiêm trọng, trong kỳ bầu cử tới rất có thể đảng sẽ mất phiếu. Giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của đảng, cái nào lớn hơn, cần ưu tiên cái nào, câu trả lời là khá rõ.

Anh không muốn từ chức cũng không được. Đảng buộc anh phải từ chức. Ra bàn dân thiên hạ, anh vẫn có thể nói đây là quyết định từ chức của cá nhân anh. Có ai bắt tội đâu mà sợ! Các ví dụ vừa nêu đều rơi vào loại từ chức kiểu này.

Như vậy, về cơ bản không có cái gọi là “văn hóa từ chức” như chúng ta trông đợi. Việt Nam và các nước khác cũng thế.

Gần 100% các trường hợp từ chức trên thế giới rơi vào loại bị buộc phải từ chức. Đã và sẽ có rất ít trường hợp tự từ chức do lương tâm cắn rứt, do không làm tròn trách nhiệm nên đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, cho người dân. Tây và ta đều như vậy.

Từ chức hay không là việc của ban lãnh đạo đảng cầm quyền. Uy tín của đảng sẽ bị ảnh hưởng đến mức nào, uy tín và trách nhiệm của chính phủ, của cá nhân thủ tướng với tư cách là người đứng đầu chính phủ bị ảnh hưởng đến mức nào nếu một bộ trưởng mà dư luận đặt dấu hỏi tiếp tục tại vị. Nếu không có gì là nghiêm trọng thì sẽ chẳng có gì xảy ra cả và ngược lại. Hệ thống chính trị, hệ thống hành chính nhà nước của Việt Nam cũng dần phải thích ứng với những vấn đề theo kiểu này. Mà đây lại chính là điểm thể hiện rõ phương châm hành động của Đảng: Đảng đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết.