Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

BIẾM HỌA CHỐNG TÀU XÂM LƯỢC MỘT THỜI...

Biếm họa chống Tàu của một thời…



Trên FB mấy hôm nay mọi người truyền nhau những bức ảnh chụp từ tập tranh biếm họa đả kích được giới thiệu có tên “Mưu sâu họa càng sâu“, do Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân ấn hành vào tháng 12 năm 1979, với số lượng 20.200 cuốn. Các họa sĩ vẽ tranh gồm có Nguyễn Đạo Hưng, Trịnh Lập, Dương Lê, Nguyễn Nghiêm, Huy Quang, Văn Thanh.

Xin được chia sẻ lại trên Soi và có thêm ít dòng chú thích:

Cách đây tròn 35 năm, vào lúc rạng sáng ngày 17-2-1979, quân Trung Quốc đã bất ngờ nổ súng trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam, đồng thời xua hơn 60 vạn quân tràn vào vùng biên địa của đất nước. Trong những ngày ấy, các họa sỹ biếm của Việt Nam đã dùng biếm họa như một thứ vũ khí sắc bén để cùng với toàn dân tộc chống lại quân xâm lăng.

Nhân dịp 35 năm, nhìn lại những bức biếm họa của một thời, không phải để hằn thù, mà thấy quý giá những gì mà thế hệ trước đã làm nhằm bảo vệ non sông đất nước, cuộc sống yên bình của người dân.

Dĩ nhiên, có những bức biếm họa mang không khí, hoàn cảnh của thời đó, có thể không còn phù hợp với hoàn cảnh của ngày hôm nay, bạn đọc Soi cũng không nên xem với tâm thế của những ngày hừng hực máu lửa năm 1979 ấy. Mọi thứ đã khác, nhiều thứ xôi-đậu không trắng-đen hẳn như ngày ấy, bạn-thù cũng chồng chéo hơn và là một thực tế mà mỗi chúng ta ngày hôm nay cần phải “thâm” hơn trong đối mặt.

”Biên giới của chủ nghĩa bành trướng”: Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán được nuôi dưỡng từ nghìn năm phong kiến, biến tướng qua thời hiện đại vẫn không che dấu được tham vọng mở rộng biên cương lãnh thổ theo bước chân của những đội quân xâm lược. Đất nước nhỏ bé phía Nam Trung Hoa là một trong những mục tiêu đầu tiên.

“Mô hình thế giới kiểu 1949 của Bắc Kinh”: Tham vọng bá quyền nước lớn của chính quyền Bắc Kinh không dừng lại ở việc mưu toan chinh phục quốc gia đồng minh cùng ý thức hệ phía Nam, mà còn vươn tới tầm thế giới với mô hình “chính quyền trên đầu nòng súng!”, muốn cả thế giới đầy bóng đại cán Tàu. Tham vọng này được cổ vũ bởi việc quân giải phóng của Mao giành chính quyền ở đại lục năm 1949, đẩy Quốc dân đảng qua eo biển, sang Đài Loan.

“Đối nội và đối ngoại”: một chính sách đối ngoại bành trướng, hung hãn, xua người nghèo đi lính xâm lược, đi kèm với đấu đá nội bộ.

“Kế hoạch đột xuất làm thêm 800 triệu cái khóa”: vào thời điểm ấy, dân số Trung Quốc vào khoảng 800 triệu người. Một trong những biện pháp thông thường của chính quyền Bắc Kinh là “khóa mồm” người dân lại, không cho họ được ý kiến ý cò gì, nhất là khi nhà nước tiến hành chiến tranh xâm lược.

“Kẻ kế tục”: “Truyền thống” tàn ác của giới cầm quyền bắt đầu từ thời bạo chúa Tần Thủy Hoàng, cho đến thời hiện đại của Đặng Tiểu Bình đã được mở rộng, “xuất cảng” sang Campuchia cho tập đoàn diệt chủng Pol Pot áp dụng với chính dân tộc mình, sát hại khoảng một phần ba dân số Campuchia chỉ trong vòng hơn 3 năm!

“Điên đảo”: Với chính quyền Đặng Tiểu Bình ở thời điểm ấy, những giá trị “bạn”, “thù” quay tít như con thò lò trên hình chữ “vạn” của phát xít Đức, với phương châm thực dụng tối đa: “Mèo đen hay mèo trắng không quan trọng, miễn là bắt được chuột!”.
“Hiện đại hóa quân đội”: Quân huy quân đội Trung Quốc có chữ “bát nhất” 八一. Theo họa sĩ, hiện đại hóa quân đội lúc ấy chỉ là đổi thành chữ “vạn” phát xít.

“Củ cà rốt và cái bóng”: Đó là hiện đại hóa công nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, hiện đại hóa quốc phòng, hiện đại hóa khoa học và công nghệ. Quá trình “hiện đại hóa” để tăng cường sức mạnh quân đội nhằm gây chiến với các nước láng giềng luôn được chính quyền phương Bắc đậy điệm bằng những ngôn ngữ dân sự hiền lành, như củ cà rốt che đậy linh hồn của một quả bom…

“Mới hiện đại một nửa”: Trong chiến tranh, bao giờ cũng có việc bên này chê bai quân đội bên kia. Họa sĩ biếm Việt Nam giễu quân đội Trung Quốc lúc ấy trông có vẻ được trang bị oách thế nhưng thực tế là chẳng có gì, chỉ bốc phét.

“Bá nghiệp và sức kéo”: Một chính sách thực chất tập trung cho quân đội, trong khi lúc ấy, đời sống dân Trung Quốc còn rất lầm than.

“Còn nỏ mồm chối cãi?!”: Vào tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc che đậy việc xâm lược, âm mưu cướp đất bằng chiêu bài “dạy cho Việt Nam một bài học”. Việc vạch mặt âm mưu ấy tựa như lột trần gót giày Tàu của kẻ vượt đường biên.

“Quân uy của bọn cướp nước”: tấn công Việt Nam, binh lính Trung Quốc không giữ được “quân uy”, thấy lợn, gà… cũng bắt; không từ đàn bà, con trẻ…

“Có một tỷ dân cơ mà”: Mới chỉ bị các lực lượng vũ trang địa phương và bộ đội biên phòng Việt Nam chặn đánh (khi ấy lực lượng chủ lực của Việt Nam vẫn còn tập trung ở chiến trường Campuchia đánh quân Polpot), quân Trung Quốc đã thất điên bát đảo; chiến thuật phổ biến nhất của các tướng chiến trường Trung Quốc thực thi trong chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979 là “biển người”, xua quân tấn công bất kể sống chết ra sao. Đây cũng là chiến thuật mà Trung Quốc đã áp dụng thường xuyên trong chiến tranh Triều Tiên hơn 20 năm trước. Với các nhà chỉ huy quân sự Trung Quốc, núi xương sông máu nào có ý nghĩa gì!

“Một kiểu giơ tay đầu hàng”: Và đây mới là “quân uy” thật sự của quân Trung Quốc khi bị thất bại trên mảnh đất Việt Nam lúc ấy, không còn thể thống gì cả. Không có vũ khí, binh lính Trung Quốc thực dụng và hèn hạ đến bất ngờ.

“Chiến thắng trở về”: Khi các quân đoàn chủ lực của Việt Nam được điều chuyển lên biên giới phía Bắc vào đầu tháng 3-1979 thì Bắc Kinh vội tuyên bố rút quân để tránh theo dấu những Thoát Hoan, Tôn Sĩ Nghị xưa kia! Chiến lợi phẩm thu được là lợn gà cướp trên chiến trường và một đội quân “chiến thắng” vội vã lẫn thất thểu trở về.

“Mừng đại thắng”: Trung Quốc dĩ nhiên không bao giờ thừa nhận thất bại. Nhưng cuộc chiến xâm lược Việt Nam năm 1979 của họ đã phải trả giá cực đắt với hàng vạn lính phơi thây trên chiến trường. Băng pháo ăn mừng chẳng khác gì băng đạn nướng thây.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét