Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

CHÍNH SÁCH "BÊN MIỆNG HỐ CHIẾN TRANH" CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM SAU THÁNG 2 NĂM 1979

Chính sách “bên miệng hố chiến tranh” của Trung Quốc đối với Việt Nam sau tháng 2 – 1979

Dư luận viên amaritx

Sau một thời gian cân nhắc, chuẩn bị kỹ càng mọi phương diện, ngày 17-2-1979, Trung Quốc phát động cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, đưa60 vạn quân cùng với gần 800 xe bọc thép, xe tăng, trọng pháo và máy bay các loại đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Trong giờ phút nguy nan, toàn thể dân tộc đã đồng lòng, cùng một ý chí, một quyết tâm giáng trả, bảo vệ biên cương đất nước. Trung Quốc đã phải rút quân, song cuộc chiến vẫn chưa kết thúc, mà chuyển sang một trạng thái mới, không kém phần nguy hiểm – nửa có hòa bình, nửa có chiến tranh.

1- Trì hoãn và đàm phán không thực chất

Ngược dòng lịch sử, không phải chỉ đến sau khi xung đột biên giới phía Bắc (2-1979) nổ ra, phía Việt Nam mới chú trọng giải quyết vấn đề biên giới. Các cuộc đàm phán về biên giới đã được thực hiện từ trước đó, nhằm giải quyết những xung đột nhỏ. Cuộc đàm phán đầu tiên về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam – Trung Quốc được tiến hành từ ngày 15-8-1974 đến ngày 22-11-1974, cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Cuộc đàm phán thứ hai về biên giới, lãnh thổ giữa hai nước diễn ra ở Bắc Kinh (từ ngày 10-1977 đến ngày 6-1978) cũng ở cấp Thứ trưởng ngoại giao. Các cuộc đàm phán không đạt được thỏa thuận nào, ngoài việc dàn xếp gác lại khu vực tranh chấp ở giữa vịnh Bắc Bộ cho đến khi cùng đạt được thỏa thuận. Sau khi cuộc đàm phán của hai bên tạm dừng, các vụ việc căng thẳng ở biên giới ngày càng gia tăng và như trình bày ở trên, tháng 2-1979, cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới phía Bắc diễn ra, xung đột biên giới Việt – Trung đã lên tới đỉnh điểm.

Sau khi chiến tranh biên giới năm 1979 kết thúc, đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc được nối lại. Trước khi bước vào đàm phán với Trung Quốc, Nhà nước Việt Nam có chủ trương về một đợt đấu tranh ngoại giao mới. Nhận định rằng, Trung Quốc có thể dùng đàm phán ngoại giao và trì hoãn đàm phán để che đậy cho những bước đi tiếp theo, Việt Nam xác định sách lược thích hợp là phải kéo bằng được Trung Quốc ngồi vào đàm phán, chủ trương: Một mặt, tiến hành các bước thúc đẩy đàm phán, tranh thủ dư luận quốc tế, tìm ra chỗ yếu, làm sâu thêm các mâu thuẫn, kéo Trung Quốc xuống thang từng bước; mặt khác, khẩn trương tăng cường lực lượng về mọi mặt, sẵn sàng đánh bại mọi bước phiêu lưu quân sự mới. Bên cạnh đó, lường định những tình huống có thể xảy ra, các cấp lãnh đạo chiến lược Việt Nam dự báo rằng, có một khả năng thứ hai: Trung Quốc không chịu ngồi vào bàn đàm phán. Trong trường hợp đó, vẫn phải tỏ ra thiện chí, tích cực tranh thủ dư luận thế giới, để Trung Quốc tự bộc lộ bản chất và các toan tính.

Cuối cùng, cuộc đàm phán Việt –Trung lần ba diễn ra vào năm 1979 với hai vòng đàm phán. Trong vòng đàm phán thứ nhất, lập trường hai bên tóm tắt như sau: Phía Việt Nam cho rằng, trước hết cần giải quyết các vấn đề cấp bách để vãn hồi hòa bình, tạo không khí thuận lợi để giải quyết những vấn đề khác. Đoàn Việt Nam đưa ra đề nghị về “Những nguyên tắc và nội dung chủ yếu cho một giải pháp về những vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc“, với phương án ba điểm để giải quyết vấn đề biên giới: Chấm dứt chiến sự, phi quân sự hóa biên giới; khôi phục giao thông, vận tải bình thường; một giải pháp cho bất cứ vấn đề lãnh thổ nào trên “cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử mà các Hiệp định Trung – Pháp năm 1887 và 1895 đã thiết lập”.Phía Trung Quốc kiên quyết từ chối những đề nghị của Việt Nam, đưa ra đề nghị tám điểm của mình, bác bỏ việc phi quân sự hóa biên giới, đề nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ trên “cơ sở những công ước Trung – Pháp”, chứ không phải trên cơ sở đường ranh giới thực tế do các Hiệp định đó đưa lại. Trung Quốc cũng đòi Việt Nam thừa nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là “một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc”; Việt Nam phải rút quân ra khỏi Trường Sa, thay đổi chính sách với Lào và Campuchia, giải quyết vấn đề Campuchia. Như một bộ phận của giải pháp cho vấn đề biên giới, Trung Quốc đưa tiếp vấn đề Hoa kiều ở Việt Nam (nhận lại những người Hoa đã ra đi) và quan hệ Việt Nam với các nước khác: “Không bên nào sẽ tham gia bất cứ khối quân sự nào chống bên kia, cung cấp căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ và các căn cứ các nước khác chống lại phía bên kia”; “Việt Nam không tìm kiếm bá quyền ở Đông Dương hay ở bất cứ nơi nào” làm điều kiện để tiến hành thương lượng.

Vòng đàm phán thứ hai được tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 8-6-1979. Đoàn đại biểu Việt Nam đưa “Dự thảo thỏa thuận” về việc hai bên cam kết không tiến hành các hoạt động thám báo và trinh sát dưới mọi hình thức trên lãnh thổ của nhau; không tiến hành bất cứ hoạt động tiến công, khiêu khích vũ trang nào, không nổ súng từ lãnh thổ bên này sang bên kia, cả trên bộ, trên không, trên biển; không có bất cứ hành động gì uy hiếp an ninh của nhau. Việt Nam cũng đưa ra những quan điểm của mình về “chống bá quyền” với ba nội dung chính: 1- Không bành trướng lãnh thổ dưới bất cứ hình thức nào, chấm dứt ngay việc chiếm đoạt đất đai của nước kia, không xâm lược, không dùng vũ lực để “trừng phạt” hoặc để “dạy bài học”; 2- Không can thiệp vào quan hệ của một nước với nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, không áp đặt tư tưởng, quan điểm, đường lối của mình cho nước khác; 3- Không liên minh với các thế lực phản động khác chống lại hòa bình, độc lập dân tộc. Nhìn chung, trong vòng đàm phán này, Trung Quốc chủ yếu chỉ trích Việt Nam về việc “buộc” Trung Quốc phải thực hiện “chiến tranh tự vệ” (?!), đề cập đến một số vấn đề liên quan đến quan hệ hai nước và lập trường tại khu vực, không tập trung giải quyết thực chất vấn đề biên giới.

Qua hai vòng đàm phán, bộc lộ rõ thêm hàng loạt vấn đề:

Thứ nhất,Việt Nam muốn tập trung vào bàn bạc, giải quyết những vấn đề liên quan đến xung đột vũ trang giữa hai nước và tìm cách giảm căng thẳng ở biên giới chung, còn Trung Quốc đưa ra phạm vi thảo luận quá cách biệt (sự hiện diện của Việt Nam tại Campuchia, chấp nhận sự trở lại của người Hoa, công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… là những điều phi lý, xâm hại đến chủ quyền quốc gia dân tộc của Việt Nam). Chính vì thế, kết quả đạt được là hạn hẹp, chỉ dừng lại ở mức độ bước đầu bàn bạc về những biện pháp đảm bảo hoà bình, ổn định trên vùng biên giới, về thoả thuận không bên nào đóng quân trên các điểm cao biên giới, lùi quân đội về phía sau, thỏa thuận giải quyết việc trao trả người của hai bên bị bắt.

Thứ hai,phía Trung Quốc lưu ý rằng, cuộc xung đột biên giới trên bộ không thể chấm dứt nếu như Việt Nam không chịu từ bỏ chủ quyền trên các nơi sở hữu ở biển Đông, rút khỏi Campuchia, chấm dứt liên minh với Liên Xô, không thamgia liên minh quân sự, hoặc cho nước ngoài sử dụng căn cứ quân sự của mình, hoặc sử dụng lãnh thổ và căn cứ ở nước khác…Thái độ áp đặt của Trung Quốc đối với Việt Nam đã rõ,nhất là khi Trung Quốc lấy quan hệ của Việt Nam với các nước khác làm một bộ phận của giải pháp biên giới.

Thứ ba,Trung Quốc chủ yếu coi các cuộc đàm phán là diễn đàn để thăm dò thái độ, thể hiện lập trường, quan điểm trên nhiều vấn đề khác nhau, chưa tập trung đàm phán thực chất và trực tiếp vào các vấn đề biên giới, các vấn đề biên giới có được đề cập thì cố tạo ra những quan điểm khá cách biệt, vì thế,các cuộc thương lượng bị bế tắc ngay từ đầu. Trong những cuộc thương lượng, có thể thấy rõ một điều: Giải quyết tranh chấp biên giới thực chất là một “dền dứ” chính trị.

Đầu năm 1980, Trung Quốc đơn phương đình chỉ vòng ba, không nối lại đàm phán. Việt Nam liên tiếp gửi công hàm yêu cầu họp tiếp vòng ba, nhưng Trung Quốc làm ngơ. Trong những năm 1979-1982, Việt Nam nhiều lần đề nghị nối lại các cuộc đàm phán đã bị Trung Quốc đơn phương bỏ dở, nhưng Trung Quốc vẫn một mực khước từ. Sở dĩ Trung Quốc chưa muốn nối lại đàm phán là vì giải quyết vấn đề biên giới với Việt Nam chưa phải là mối quan tâm thực sự của Trung Quốc lúc này và diễn biến quan hệ Việt – Trung không chỉ là câu chuyện giữa hai nước, mà còn bị chi phối bởi tình hình, các diễn biến ở Campuchia – một vấn đề khá “nhạy cảm” ở khu vực và trong nhiều mối quan hệ quốc tế liên quan. Trung Quốc chờ đợi để Khơme Đỏ giành được một thế nào đó ở Campuchia, còn Việt Nam phải dàn lực cả trên hai hướng biên giới, rơi vào thế cô lập về ngoại giao, khó khăn về chính trị, sa lầy trong khủng hoảng kinh tế – xã hội. Trong lúc đó, Trung Quốc tiếp tục tìm kiếm và thắt chặtthêm các quan hệ liên minh ở Đông Nam Á, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những mục tiêu lâu dài ở khu vực, nhất là tại thời điểm đó, Trung Quốc nhận định tình hình thế giới, khu vực đang chuyển biến theo một xu thế có lợi cho mình.

Những năm 1982, 1983 và 1984, tại diễn đàn đàm phán bình thường hóa quan hệ Xô – Trung ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao, Trung Quốc nêu vấn đề quân đội Việt Nam ở Campuchia, đề nghị Liên Xô phải đôn thúc Việt Nam rút quân ra khỏi Campuchia, coi việc Liên Xô tiếp tục ủng hộ quân đội Việt Nam tại Campuchia là trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hóa quan hệ Trung – Xô. Điều này cho thấy, Trung Quốc muốn thông qua Liên Xô buộc Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, dính lứu Việt Nam vào vấn đề cải thiện quan hệ Trung – Xô. Giải quyết vấn đề biên giới với Việt Nam chưa phải là mục tiêu thực sự của Trung Quốc. Nói cách khác, từ chối và trì trệ trong các cuộc đàm phán, tranh thủ các nước ASEAN, hướng tâm lý các nước ASEAN vào việc chống Việt Nam, Trung Quốc muốn làm cho Việt Nam bị cô lập thêm trong khu vực và trên thế giới bằng cách cầm chân những nhà lãnh đạo Việt Nam vào những cuộc đàm phán không kết quả.

2- Xâm lấn và gây rối trên bộ

Trong khi đàm phán đang trì trệ, Trung Quốc liên tục mở những cuộc tiến công, xâm nhập, pháo kích vào lãnh thổ Việt Nam. Trong những năm 80 (XX), tình hình biên giới Việt Nam – Trung Quốc liên tục ở trong tình trạng căng thẳng, có chiến sự với mức độ thấp hơn chiến tranh. Theo số liệu chưa đầy đủ, chỉ trong năm 1980, đã phát hiện 300 lần các toán vũ trang Trung Quốc xâm nhập biên giới, hoạt động phục kích 88 vụ, tấn công 60 vụ, trinh sát, thám báo 136 vụ, xâm nhập khác 17 vụ, gây nhiều thiệt hại cho phía Việt Nam. Địa bàn xâm nhập tập trung là một số xã vùng cao thuộc 14/248 huyện biên giới như Phong Thổ (Lai Châu), Mường Khương ( Hoàng Liên Sơn), Đồng Văn (Hà Tuyên), Trùng Khánh (Cao Bằng)

Ngày 5-6-1981, Trung Quốc bắn hàng nghìn quả đạn pháo sang nhiều khu vực thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, sau đó dùng lực lượng đánh chiếm khu vực bình độ 400 ở phía Nam, cột mốc 26, thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngày 7-6-1981, Trung Quốc tiếp tục đánh chiếm một số điểm cao thuộc tỉnh Hà Tuyên. Tổng kết lại, về chiến tranh lấn chiếm ở biên giới, tính từ tháng 3-1979 đến hết tháng 9-1983, Trung Quốc đã cho lực lượng vũ trang xâm nhập biên giới Việt Nam 48.974 vụ, trong đó xâm nhập biên giới trên bộ 7.322 vụ có nổ súng, khiêu khích; xâm nhập vùng biển 28.967 vụ; xâm nhập vùng trời biên giới 12.705 vụ (với hơn 2.000 tốp máy bay). Trung Quốc bắn pháo thường xuyên vào các vùng dân cư, có khi hàng nghìn quả đạn, tiếp tục lấn chiếm đất đai (chiếm dải bình nguyên 400 thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn cho đến năm 1997 vẫn chưa rút),tổ chức hàng chục vụ xâm canh, xâm cư, các hoạt động di dịch, đập phá cột mốc, dựng bia, chôn mộ trong đất Việt Nam. Thậm chí, ngày 1-2-1984, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang cùng đoàn cán bộ cao cấp đã đến thăm cao điểm 400 (mà Trung Quốc đặt tên là Pakhason) để uý lạo quân đội, thể hiện mục đích chiếm giữ đất đai lấn chiếm được đến cùng. Cũng tính đến tháng 3-1983, Trung Quốc còn chiếm giữ 89 điểm của Việt Nam.

Các cuộc tấn công, lấn chiếm của Trung Quốc càng dồn dập hơn vào năm 1984. Nhà nghiên cứu Trung Quốc Sa Lực Mân Lực công khai nói rằng, ngày 28-5-1984, quân Trung Quốc đã cho “hàng vạn khẩu pháo đồng loạt nổ vào một điểm (mà tác giả gọi là Lão Sơn), thuộc xã Thanh Thuỷ, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên. Các cuộc tiến công trong năm 1984, như hãng AFP nhận xét (27-4-1984): Trung Quốc chủ trương tạo ra tình hình căng thẳng tại biên giới như là một phương tiện gây sức ép, nhằm buộc Việt Nam phải thay đổi chính sách. Đây chính là cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống Việt Nam, cái mà tác giả cuốn “Chín lần xuất quân lớn của Trung Quốc” Sa Lực Mân Lực gọi là “cuộc chiến đấu giằng co trong hơn 1.800 ngày”. Các nhà quan sát nước ngoài ghi nhận từ tháng 7-1980 đến tháng 8-1987, dọc biên giới Việt Nam – Trung Quốc đã xảy ra 6 cuộc chạm trán nảy lửa vào các tháng 7-1980, tháng 5-1981, tháng 4-1983, tháng 6-1985, tháng 12-1986 và tháng 1-1987. Theo tuyên bố của Ngoại Trưởng Trung Quốc Ngô Ngọc Khiêm trong buổi họp báo ở Xinhgapo ngày 29-1-1985, trong năm 1985, Trung Quốc đã điều thêm tám sư đoàn bộ binh cùng gần hai mươi sư đoàn đã đóng chốt từ trước, áp sát dọc biên giới Việt – Trung; đồng thời, triển khai hơn 650 máy bay chiến đấu, ném bom tại các sân bay gần biên giới. Còn theo Báo Nhật Bản Sankei Shibunm ra ngày 14-1-1985, Trung Quốc đã đưa số máy bay đến gần biên giới Việt – Trung lên gần 1.000 chiếc. Đài BBC ngày 6-2-1985 cho biết: Trung Quốc có 400.000 quân đóng dọc biên giới Việt – Trung. Tạp chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế của Trung Quốc số 2-1982 đã lý giải mục đích của việc bố trí một lực lượng lớn quân đội ở sát biên giới với Việt Nam “là để kìm giữ một phần binh lực của Việt Nam ở tuyến biên giới phía Bắc, do đó làm lợi cho cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân Campuchia”. Cũng cần nhấn mạnh là trong mùa khô 1984-1985, quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch đánh thẳng vào vùng đất thánh và xoá sạch các căn cứ của ba phái Khơme cắm sâu vào đất Thái Lan, nên những năm 1984-1985, biên giới Việt – Trung liên tục căng thẳng và có sự dàn thế trận của quân đội Trung Quốc.
Cùng với các hoạt động quân sự thấp hơn chiến tranh, Trung Quốc tăng cường các hoạt động gây rối nội bộ, mua chuộc người của các dân tộc thiểu số, trong đó có người Hoa, tiến công chính trị, phá hoại kinh tế, đẩy mạnh chiến tranh tâm lý. Trung Quốcráo riết thực hiện chiến lược phá hoại toàn diện và lâu dài với nhiều thủ đoạn, làm cho tình hình ở các vùng giáp biên thường xuyên không yên ổn,phá hoại một cách toàn diện tư tưởng, chính trị, kinh tế, quốc phòng. Kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt này rất phức tạp, Trung Quốc đánh phá bằng nhiều mưu mô, trên nhiều lĩnh vực, từ nhiều hướng, trên nhiều địa bàn, bằng nhiều lực lượng, nhiều hình thức, kết hợp đánh từ trong ra, ngoài vào, tiến hành bao vây, phong toả kinh tế từ bên ngoài, tiến hành phá hoại máy móc, đốt cháy kho tàng… gây thiệt hại cho sản xuất. Trung Quốc tổ chức buôn lậu, đầu cơ tích trữ, phá hoại tiền tệ, lũng đoạn thị trường, ra sức lợi dụng những sơ hở, thiết sót trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội để làm nghiêm trọng thêm những khó khăn về kinh tế, đời sống Việt Nam. Trung Quốc thường khiêu khích vũ trang, sử dụng hoạt động lấn chiếm, phá hoại phòng tuyến bảo vệ biên giới, tung gián điệp, thám báo, biệt kích vào nội địa, kích động chia rẽ dân tộc, xây dựng cơ sở vũ trang, gây phỉ, tiến tới lấn chiếm một vùng tập trung đồng bào dân tộc ít người, lập những cái gọi là “một khu tự trị”, hoặc “một nước tự trị”. Tại Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (11-1981), Lê Duẩn phát biểu: “Nước ta đang ở trong tình hình vừa có hoà bình vừa có chiến tranh. Hội nghị lần thứ IV của Trung ương Đảng năm 1978 đã nhận định như vậy. Hiện nay và trong nhiều năm sắp tới, tình hình nước ta cũng sẽ là như vậy (…) Bắc Kinh đe doạ độc lập chủ quyền của nước ta từ bốn mặt. Và trong những điều kiện nhất định, không loại trừ khả năng địch có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn”. Đặc biệt, từ cuối năm 1980, Trung Quốc câu kết Fulro, với tàn quân Pôn Pốt, lập căn cứ ở Đông Bắc Campuchia, lập hành lang Tây Nguyên- Campuchia –Thái Lan, phá hoại công cuộc xây dựng Tây Nguyên và một vài nơi thuộc vùng núi Nghĩa Bình, Phú Khánh.

3- Gây sức ép từ hướng biển

Trong các ngày 22-2-1980, 27-2-1980 và 2-3-1980 tại vùng biển Tây Nam quần đảo Hoàng Sa, tầu Hải quân Trung Quốc đã tổ chức bắt cóc một số thuyền đánh cá của ngư dân hai tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và Nghĩa Bình.Từ năm 1979 đến năm 1982, diễn ra các sự kiện cho thấy những tính toán lâu dài trong chiến lược biển Đông của Trung Quốc: 1- Tổng cục Hàng không Dân dụng Trung Quốc công bố một thông cáo quy định “bốn vùng nguy hiểm” ở Tây Nam đảo Hải Nam, trong đó có vùng trời của quần đảo Hoàng Sa và buộc máy bay dân dụng của các nước khác phải bay qua đây vào những giờ do Trung Quốc quy định, 2- Công bố một bản quy định cho máy bay dân dụng nước ngoài bay vào không phận của Trung Quốc, tính cả không phận quần đảo Hoàng Sa (7-1979); 3- Thành lập lữ đoàn Hải quân đầu tiên ở đảo Hải Nam (12-1979);4- Máy bay ném bom H-6 của Hải quân Trung Quốc thực hiện cuộc tuần tra trên không đầu tiên ở quần đảo Trường Sa (1-1980); 5- Đưa Sở chỉ huy của hạm đội Nam Hải từ Quảng Châu xuống Trạm Giang và trang bị cho hạm đội những trang bị hiện đại nhất để xây dựng, mở rộng hàng loạt các cảng quân sự, trạm tên lửa ở đảo Hải Nam; 6- Hoàn tất các công trình phòng thủ trên Hoàng Sa, cho nhiều tàu ngư lôi và hàng trăm tầu cá Trung Quốc đường đột tiến vào vùng lãnh hải của Việt Nam tại vịnh Bắc Bộ (1981); 7- Năm 1982, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Trung Quốc Dương Đắc Chí viếng thăm quần đảo Hoàng Sa và tàu hải quân của Trung Quốc, Việt Nam đã đụng độở ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 15-4-1987, Trung Quốc đã ra tuyên bố lên án quân đội Việt Nam “chiếm đóng” đảo đá Ba Tiêu thuộc quần đảo Trường Sa(?!). Bản Tuyên bố nói rằng, mục đích của Việt Nam khi triển khai quân đội một cách bất hợp pháp ở đảo Ba Tiêu là để chiếm hữu thềm lục địa gần đó và mở đường cho việc khai thác dầu trong tương lai.Trung Quốc yêu cầu Việt Nam rút khỏiBa Tiêu và chín hòn đảo khác,bảo lưu quyền thu hồi các đảo này vào một thời điểm thích hợp. Thậm chí, Trung Quốc còn tuyên bố mạnh mẽ: “Chừng nào mà quân đội Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốcvẫn còn thống nhất hành động trong việc chống lại kẻ thù, thì hoàn toàn có thể ngăn chặn hành động bành trướng tàn bạo của Việt Nam và thậm chí còn giáng trả nặng nề”.Từ ngày 15-5 đến ngày 6-6-1987, Hải quân Trung Quốc diễn tập lớn và tổ chức các cuộc nghiên cứu hải dương học ở khu vực quần đảo Trường Sa. Động thái này làm phức tạp hơn tình hình đã vốn phức tạp và nhằm chứng tỏ rằng Hải quân Trung Quốc có khả năng thực hiện những cuộc hành quân hỗn hợp ở cả vùng biển gần lục địa, biển khơi và Trung Quốc có thể làm điều Trung Quốc muốn.

Sang năm 1988, Trung Quốc tiếp tục trì hoãn các cuộc gặp gỡ, có những hành động ở biển Đông làm căng thẳng thêm tình hình. Tháng 1-1988, một lực lượng lớn tầu chiến của Trung Quốc hoạt động xâm chiếm tại bãi đá Chữ Thập và Châu Viên, xây nhà, cắm cờ Trung Quốc trên hai đảo này, làm bàn đạp để mở rộng các hành động lấn chiếm trên quần đảo. Ngày 26-2-1987, lực lượng của Trung Quốc đã đổ bộ lên hai đảo san hô trong quần đảo. Ngày 20-2-1988, Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, Trung Quốc đã huy động nhiều tàu chiến hoạt động ở lãnh hải Trường Sa của Việt Nam. Tình trạng chung đã trở nên căng thẳng nghiêm trọng.

Tham vọng của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sađã lên đến một mức độ mới – Trung Quốc gây ra cuộc hải chiến đẫm máu vào tháng 3-1988 gần cụm đảo Sinh Tồn, khiến 3 tàu vận tải của Việt Nam bị bắn chìm, 20 người hy sinh và 74 người khác bị mất tích. Nhận xét về cuộc đụng độ, Giáo sư Luật học Gerardo Martin C.Valero viết: “Đó là cuộc đụng độ hải quân trầm trọng nhất ở khu vực Trường Sa kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai”. Xung đột này xảy ra vào thời điểm “vấn đề Campuchia” đang đi vào giải quyết, trùng hợp với những căng thẳng ở Campuchia. Đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Trung Quốc không chỉ triển khai thực hiện chiến lược mở rộng lãnh hải, mà còn nhằm giải tỏaáp lực cho lực lượng Polpot đang bị bao vây ở Campuchia. Nhà nghiên cứu Quách Minh, Hiệp hội Khoa học xã hội Quảng Tây viết về mục tiêu của cuộc tấn công này như sau: “Thứ nhất, tuyên cáo quần đảo Nam Sa (Trường Sa – TG) là lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc, Trung Quốc có quyền bảo vệ, bất cứ thế lực nào đều không thể muốn làm gì thì làm trong lãnh hải thuộc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc; Thứ hai, tỏ rõ Trung Quốc có thực lực bảo vệ biên giới trên biển và hải đảo, cho dù quần đảo Nam Sa cách đại lục Trung Quốc tương đối xa, nhưng lực lượng Hải quân Trung Quốc vẫn có năng lực bảo vệ”[33]. Tác giả này cũng thừa nhận rằng, sau xung đột ngày 14-3-1988, “khu vực hoạt động của tàu thuyền Hải quân Trung Quốc được mở rộng, thậm chí có thể phủ khắp các đảo đá ngầm mà Việt Nam chiếm đóng”.

Tính trong năm 1988, Trung Quốc tấn công chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, xây dựng hệ thống dàn khoan khung sắt với những thiết bị vệ tinh và thông tin, ra sức củng cố những điểm này làm bàn đạp cho những bước tiến mới. Không lâu sau “cuộc hải chiến”, tháng 5-1988, tờ Nhật báo Quân đội nhân dân - tiếng nói chính thức của quân đội Trung Quốc đã có bài viết, trong đó tuyên bố: Hiện nay Hải quân Trung Quốc có thể bảo vệ lãnh hải gần bờ Trung Quốc, cả chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và biển khơi xa lục địa hàng trăm hải lý. Bằng tuyên bố này, Trung Quốc đã tỏ cho các nước láng giềng xung quanh biển Đông biết quyết tâm cao của mình là có khả năng chiếm đóng các đảo trong quần đảo Trường Sa mà các nước này đang có tranh chấp chủ quyền.

Trước những hành động xâm chiếm trái phép của Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam đã liên tục gửi công hàm phản đối đến Bắc Kinh (ngày 17 và 23, 26 tháng 3-1988), đề nghị Trung Quốc cử đại diện đàm phán, thương lượng để giải quyết những bấtđồng liên quan đến quần đảo Trường Sa, cũng như những vấn đề tranh chấp khác về biên giới và quần đảo Hoàng Sa; đề nghị Trung Quốc trong khi chờ giải quyết tranh chấp, hai bên không dùng vũ lực và tránh mọi đụng độ để tình hình không phát triển xấu thêm. Việt Nam cũng thông báo cho Liên Hợp Quốc về tình hình này. Song phía Trung Quốc vẫn tiếp tục chiếm giữ các nơi đã chiếm được và khước từ thương lượng, giữ quan điểm về “chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với quần đảo Nam Sa” (Trường Sa-TG).

Ngày 13-4-1988 (tròn một tháng sau cuộc hải chiến khốc liệt với Việt Nam ở quần đảo Trường Sa), Quốc hội Trung Quốc khóaVI đã phê chuẩn thành lập Khu hành chính Hải Nam, có địa giới hành chính rộng lớn trên biển Đông, bao trùm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tháng 4-1988, Trung Quốc đặt lại tên cho các đảo, đá, bãi cạn thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và sáp nhập hai quần đảo vào địa phận Hải Nam – Trung Quốc. Tuy việc thành lập tỉnh là công việc nội bộ của Trung Quốc, Hải Nam được “chuyển cấp” theo một trình tự hợp hiến, đúng với luật pháp Trung Quốc, nhưng Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thì không thể coi là công việc nội bộ của Trung Quốc. Việc làm này của Trung Quốc là nhằm đặt toàn bộ vùng biển Đông và tất cả các đảo ở đó dưới sự kiểm soát của mình, mở rộng tuyến phòng thủ chiến lược phía Nam tới quần đảo Trường Sa ở cực Nam biển Đông – đây là việc làm bất hợp pháp, xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước khác. Việt Nam đã ngay lập tức lên tiếng phản đối việc thành lập đặc khu Hải Nam của Trung Quốc.

Trung Quốc tuyên truyền chính sách mở cửa của Hải Nam là nhằm phát triển kinh tế, thực chất, Hải Nam đang dần dần được biến thành một cơ sở kinh tế, căn cứ quân sự hùng mạnh. Điều đó trở thành một yếu tố làm bất ổn định đối với sự phát triển chính trị- ngoại giao tại khu vực. Xét thời điểm xảy ra những sự kiện liên quan đến biển Đông của Trung Quốc, thì những nỗ lực vươn mạnh trên biển của Trung Quốc được đẩy mạnh vào cuối những năm 80 (XX) – đây là thời điểm được Trung Quốc tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, không hề ngẫu nhiên. Lúc này, Việt Nam đang bị bao vây, cấm vận, bị cô lập trong quan hệ ngoại giao và sự cô lập gia tăng sau “sự kiện Campuchia”. Việt Nam chưa có những liên kết chặt chẽ với ASEAN, đang phải bận tâm với nhiều khó khăn, tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội, trong tranh chấp, vì thế, Trung Quốc sẽ dễ đạt được những thỏa thuận có lợi. Valencia Mark.J đã có lý khi nhận xét rằng, “Trung Quốc đang cố tình khiêu khích Việt Nam vào một cuộc chiến để xua đuổi các nhà đầu tư khỏi Việt Nam và ngăn cản mức tăng trưởng kinh tế cạnh tranh của Việt Nam”.

Một bước tiến mới của Trung Quốc là từ tháng 1-1989 đến tháng 9-1990, Trung Quốc liên tục có các hành động như: Đặt bia chủ quyền trên các đảo đã chiếm được; tập trận, khảo sát khoa học… trong lãnh hải quần đảo Trường Sa. Đây là những hành động mà Trung Quốc thực hiện ráo riết, tranh thủ tình hình đàm phán còn chưa ngã ngũ, một mặt, nhằm khẳng định “chủ quyền” của mình trên biển Đông (?!); mặt khác, khẳng định chiến lược mở rộng ra biển Đông không thay đổi của mình. Như vậy, sở dĩ Trung Quốc còn chần chừ, chưa muốn đi vào đàm phán và giải quyết vấn đề lãnh hải một cách thực chất với Việt Nam, bởi Trung Quốc đang tận dụng mọi cơ hội tạo chỗ đứng trên trên biển Đông.

4- Đôi điều suy ngẫm…

Từ sau chiến tranh biên giới năm 1979, dù đã rút quân và tuyên bố sẵn sàng giải quyết tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải, song trên thực tế, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhiều mặt chống phá Việt Nam, tập trung vào bốn vấn đề chính: 1- Bao vây, cô lập về kinh tế, chính trị, ngoại giao; 2- Gây sức ép quân sự trên đất liền và vùng biển; 3- Tăng cường chiến tranh tâm lý, chiến tranh hàng hoá; 4- Đẩy mạnh các hoạt động tình báo.

Các hoạt động kể trên của Trung Quốc kéo dài, gây nên tình trạng căng thẳng thường xuyên, có chiến sự với mức độ thấp hơn chiến tranh ở biên giới phía Bắc và ở vùng lãnh hải của Việt Nam – đó là “chính sách bên miệng hố chiến tranh” đẩy Việt Nam phải duy trì trạng thái sẵn sàng chiến đấu - đây không chỉ một gánh nặng cho nền kinh tế quốc gia vốn đã rất khó khăn, mà còn gây nên sự mất ổn định, khiến Việt Nam khó lòng tập trung mọi nguồn lực cho công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Hành động đó của Trung Quốc là nhằm làm cho Việt Nam bị chảy máu thêm trong khi Việt Nam đang đứng trước những bất lợi.

Chính sách “bên miệng hố chiến tranh” với bốn mũi nhọn nhằm vào Việt Nam của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc là quốc gia có khả năng tính toán, tìm kiếm những cơ hội để thực hiện chính sách của mình theo những đường díc dắc. Trung Quốc luôn có khả năng đưa kế hoạch được tính toán kỹ lưỡng, có độ bao quát để kiềm tỏa một quốc gia nào đó. Tồn tại bên cạnh một quốc gia như vậy, Việt Nam không có con đường nào khác là phải tự mạnh lên, bởi lợi ích quốc gia dân tộc được đảm bảo ở mức độ nào, tùy thuộc vào đất nước mạnh hay yếu; thành công hay hạn chế trong quan hệ giữa các quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào thực lực mỗi nước.Nói một cách thẳng thắn, trong quan hệ mọi mặt với Trung Quốc về chính trị, kinh tế, văn hóa… do thực lực của Việt Nam còn yếu, nên đối diện với Trung Quốc, Việt Nam chẳng những khó có thể đạt được những lợi ích ngang bằng, mà còn thường bị thua thiệt. Sau chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, khi quan hệ hai nước tiếp tục căng thẳng, đối đầu, trong lúc “vấn đề Campuchia” còn đang là một rắc rối của Việt Nam, Việt Nam bị bao vây, cấm vận và cô đơn trong quan hệ đối ngoại, lẻ loi trên trường quốc tế, Trung Quốc tiếp tục lấn lướt Việt Nam hơn 10 năm, bất chấp mọi luật lệ. Phải chăng vì lúc này Trung Quốc nhận thấy Việt Nam đang còn yếu, khó về quân sự, nghèo về kinh tế, đơn độc về chính trị? Do thế và lực còn yếu, Việt Nam khó lòng đương đầu với Trung Quốc trong các xung đột, tranh chấp, dễ Trung Quốc chèn ép?

Thực lực của một quốc gia được hiểu là sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, địa vị, ảnh hưởng quốc tế…, Nói gọn lại, đó là ba thanh tố: An ninh, phát triển và vị thế quốc tế.Cần nhìn thẳng vào sự thật là bước vào những năm cuối của thế kỷ XX, trước cuộc chạy đua quyết liệt của các nước nhằm tìm ra lợi thế so sánh tối ưu của mình, chiếm lĩnh các đỉnh cao về kinh tế, khoa học – kỹ thuật, hội nhập với thế giới, Việt Nam đã bỏ lỡ mất nhiều cơ hội. Không thể để hào quang quá khứ che lấp một sự thật nghiệt ngã: Việt Nam còn nghèo và chậm phát triển. Không chỉ lúc bấy giờ, mà cả hiện nay, để thoát ra khỏi tình trạng đó, giải quyết tận gốc những “điểm nghẽn” cản trở phát triển của đất nước là yêu cầu bức xúc của thực tiễn, đòi hỏi phải có một đường hướng phát triển khoa học với nội dung cốt lõi VÌ DÂN –DĨ DÂN VI BẢN làm nền tảng cho những hành động, giải pháp phù hợp, quyết liệt. Mấu chốt của mọi mấu chốt nằm ở chỗ sau khi và trên cơ sở một đường hướng như vậy đã được xác lập, phải xây dựng/tổ chức cho được cơ chế và hệ thống quản trị xã hội thông minh, lành mạnh, trí tuệ làm nền, làm cội, làm rường cột, phản ánh bản chất của một chính phủ/nhà nước thân dân, yêu dân, trọng dân một cách thực chất. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới tránh được nguy cơ tụt hậu, không đánh mất cơ hội phát triển, mới có sự đồng thuận xã hội để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và quan trọng nhất, để tồn tại và vươn lên ngang hàng với các quốc gia tiến bộ, văn minh.

VHN st

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét