THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
(Tạp chí Foreign Policy – 31/1/2014)
Chiếc tàu sân bay ì ạch được biết đến như là nước Mỹ nên thực hiện một sự “xoay trục” đúng như cái tên của nó: một sự chuyển dịch từ chủ trương quân sự sang tinh thần ưa chuộng hòa bình
Trong thời đại của chính sách kinh tế thắt lưng buộc bụng và hợp tác về mặt chính sách với Trung Quốc, sự “xoay trục” sang Thái Bình Dương của Mỹ chẳng khác gì một điệu nhảy phức tạp mà ở đó Mỹ lùi về phía sau trong khi đấy những đồng minh của mình về phía trước.
Trong bản cập nhật cuốn “Từ điển của quỷ dữ” trong tương lai, tác phẩm mổ xẻ thái độ đạo đức giả trong ngôn ngữ học của đời sống hiện đại của tác giả người Mỹ nổi tiếng Ambrose Gwinnett Bierce, một từ duy nhất sẽ đi kèm với cụm từ “sự xoay trục sang Thái Bình Dương” đó là: rút lui.
Dường như đó là một cách thức kỳ lạ khi miêu tả nỗ lực mạnh mẽ của Chính quyền Obama trong việc tái định hướng chính sách đối ngoại và quân sự của mình nhằm vào châu Á. Xét cho cùng, êkíp của Tổng thống Obama đã nhấn mạnh rằng “sự xoay trục” sang Thái Bình Dương sẽ là một sự tái khẳng định mạnh mẽ về quyền lực của Mỹ tại một khu vực mang tính chiến lược trên thế giới và một sự tái đảm bảo có chủ tâm đối với các đồng minh ủng hộ Mỹ khi đối đầu với Trung Quốc.
Quả thực, đôi khi “sự xoay trục” dường như không hẳn là một thứ thuốc chữa bách bệnh cho tất thảy những gì gây phiền não cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Bối rối về những thất bại ở Iraq và Afghanistan? Vậy hãy ra đi để tìm kiếm các vùng đất hòa bình hơn. Lo âu về việc tất cả kẻ địch đang tan biến và Lầu Năm Góc đã đánh mất lý do hiện hữu của mình? Vậy hay là theo gót Trung Quốc, siêu cường tương lai duy nhất có thể tưởng tượng được đang trỗi dậy? Và nếu bận tâm về tình trạng của nền kinh tế Mỹ? Vậy Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), thỏa thuận thương mại tự do khu vực mà Mỹ đang cố gắng thương lượng có thể là liều thuốc bổ mà các tập đoàn của Mỹ đang thèm muốn.
Tuy nhiên, trên thực tế, sự “tái cân bằng mang tính chiến lược” mà Chính quyền Obama đang thúc đẩy như là sự điều chỉnh giữa nhiệm kỳ đối với chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn chỉ mạnh mẽ trong giọng điệu nhưng lại khá yếu ớt về nội dung. Hãy nghĩ về điều này như là một tiểu thuyết hư cấu tài tình mà nhiều độc giả sẵn sàng tạm ngừng sự hoài nghi của họ vì sự quảng cáo của nó. Xét cho cùng, trong thời đại sắp tới của chính sách thắt lưng buộc bụng của Lầu Năm Góc và phản ứng dữ dội của công luận trong nước,Washington có thể sẽ cảm thấy khó khăn khi dịch chuyển thêm bất kỳ nguồn lực đáng kể nào sang khu vực châu Á. Thậm chí TPP cũng chỉ là một sự thừa nhận về việc khá nhiều quyền lực kinh tế trong khu vực đã rơi vào tay Trung Quốc.
Ngoài ra cũng cần phải lưu ý đến một giai đoạn lịch sử lâu dài hơn. Mỹ đã bắt đầu rút quân khỏi châu Á kể từ những năm 1970, mặc dù “động thái chiến lược rút lui về hậu phương” này theo thuật ngữ quân sự nổi tiếng – cũng đã không diễn ra nhanh chóng hay đi kèm với những bức ảnh “sứ mệnh hơàn thành” .
“Sự xoay trục” được quảng bá rầm rộ này của chính phủ giống hơn bao giờ hết một mảng cỏ tróc – một cú xuynh gậy, một cú đánh trượt, và một lỗ gôn, so với là bất cứ cái gì gần giống như một cú át (hole-in-one – ghi bàn thắng chỉ bằng một cú đánh).
Dấu chân dần thu hẹp
Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã tham chiến và đổ máu ở châu Á nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trên Trái Đất. Từ năm 1950 đến năm 1953, dưới ngọn cờ Liên hợp quốc, các lực lượng Mỹ đã phải vật lộn để kiểm soát bán đảo Triều Tiên, kết thúc mà không ký kết được một hiệp ước hòa bình nào cùng với một sự bế tắc ở cùng đường phân chia nơi cuộc chiến đã bắt đầu. Tại một thời điểm khi cuộc chiến tranh Việt Nam mở rộng vào những năm 1960 và 1970, số lính Mỹ tại châu Á đã tăng lên tới hơn 800.000 quân. Tuy nhiên, kể từ khi cuộc chiến tranh thảm khốc này kết thúc, Washington đã rút quân khỏi khu vực này một cách rất từ từ và từng đợt. Hiện giờ, số nhân viên quân sự Mỹ ở khu vực này đã giảm xuống dưới 100.000. Có thể cho là con số thấp này ở vào những năm George w. Bush nắm quyền khi quân đội Mỹ sa lầy ở Iraq và Afghanistan, và những người chỉ trích đã bắt đầu cáo buộc Chính quyền Bush đã “đánh mất châu Á” vào tay một Trung Quổc đang trỗi dậy.
Nhìn vào các con số, không khó để đi đến kết luận rằng sự chú ý của Washington quả thực đã dịch chuyển ra khỏi khu vực Thái Bình Dương. Hãy xem xét Triều Tiên. Hòa bình khó có thể diễn ra trên bán đảo này. Thực tế, vũ khí hạt nhân của Triều Tiên và sự hiện đại hóa quân sự trên diện rộng của Hàn Quốc chỉ có tác dụng làm gia tăng căng thẳng.
Tuy nhiên, Mỹ đã liên tục cắt giảm các lực lượng của mình cả về quy mô lẫn tầm quan trọng ở Hàn Quốc trong một tiến trình chuyển giao quyền lực bị ngắt quãng. Trong vòng 45 năm qua, Washington đã ba lần đơn phương rút quân khỏi bán đảo Triều Tiên và đều nhận được sự không đồng tình từ phía Chính phủ Hàn Quốc. Đầu những năm 1970, gần 70.000 lính Mỹ đã đóng quân ở Hàn Quốc vào thời điểm Chính quyền Nixon lần đầu tiên rút toàn bộ một sư đoàn gồm 20.000 quân. Sau đó, chính quyền Carter, ngay từ đầu đã rất muốn rút tất cả các lực lượng của Mỹ, đã chấp nhận một sự giảm quân hạn chế khác. Vào năm 1991, trước việc chủ nghĩa cộng sản trên phần lớn thế giới bị sụp đổ (nhưng không phải ở Triều Tiên), Chính quyền George H.w. Bush đã đơn phương rút vũ khí hạt nhân chiến thuật khỏi bán đảo này.
Ở thế kỷ 21, sự hiện diện quân sự Mỹ đã một lần nữa thu hẹp lại – từ khoảng 37.000 quân xuống còn 28.500 quân ở thời điểm hiện tại, lần này là bởi các cuộc đàm phán giữa Washington và Seoul. (Một đội quân nhỏ gồm 800 binh sỹ mới đây đã được cử sang Hàn Quốc để gửi một tín hiệu về “quyết tâm” của Mỹ đối với Triều Tiên, nhưng chỉ luân phiên 9 tháng một lần). Ngoài ra, quân đội Mỹ đồn trú gần khu vực phi quân sự phân cách hai miền Bắc Nam, từ lâu đã mang ý nghĩa như là “một sợi dây bẫy” sẽ đảm bảo cho sự dính líu của Mỹ trong bất kỳ cuộc chiến nào trong tương lai giữa hai nước, đang được dịch chuyển về phía Nam. Tuy nhiên, các quan chức của Lầu Năm Góc gần đây đã nói bóng gió về việc để lại một phần lực lượng ở khu vực này. Hai nước hiện vẫn đang đàm phán việc chuyển giao những gì mà sáu thập kỷ sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên kết thúc vẫn được nhắc tới như là “kiểm soát hoạt động thời chiến,” một việc đáng ra phải làm từ lâu. Việc cắt giảm lực lượng đã đi cùng với việc Mỹ đóng cửa và củng cố các căn cứ của mình, bao gồm cả đơn vị đồn trú lớn Yongsan nằm giữa thủ đô Seoul của Hàn Quốc. Hàn Quốc sẽ nắm toàn quyền kiểm soát nó trong một vài năm tới.
“Dấu chân” Mỹ không chỉ thu hẹp lại ở Hàn Quốc. Một chiều hướng tái triển khai lặng lẽ hơn cũng đã cắt giảm các lực lượng mặt đất của Mỹ ở Nhật Bản, từ khoảng 46.000 vào năm 1990 xuống đội ngũ gồm 38.000 quân hiện tại. Những thay đổi thậm chí còn lớn hơn hiện đang được xem xét.
Vào năm 2000, trong một chuyến công du tới Okinawa – quận lớn nhất phía Nam Nhật Bản, Tổng thống Bill Clinton đã hứa hẹn sẽ thu nhỏ sự hiện diện quân sự đáng kinh ngạc của Mỹ trên hòn đảo này. Vào thời điểm đó, người dân Okinavva đã rất giận dữ về một loạt vụ sát hại và cưỡng hiếp do lính Mỹ thực hiện cũng như những vụ tai nạn liên quan đến quân sự đã cướp đi sinh mạng của người dân Okinawa và những mối đe dọa đến sức khỏe của họ từ đủ thứ ô nhiễm tạo ra bởi hơn 30 căn cứ quân sự của Mỹ. Kể từ đó, Washington đã theo đuổi một kế hoạch nhằm đóng cửa Căn cứ Không quân – Thủy quân lục chiến Futenma – một cơ sở cũ kỹ tọa lạc một cách nguy hiểm giữa một thành phố hiện đại – và xây dựng một căn cứ thay thế ở một nơi khác trên đảo hòn này. Kế hoạch này cũng đòi hỏi tái bố trí 9.000 lính thủy đánh bộ trên đảo Okinawa tới các khu căn cứ khác của Mỹ ở Thái Bình Dương. Nếu kế hoạch này được triển khai, các lực lượng của Mỹ tại Nhật Bản sẽ được giảm đến 25%.
Tại những nơi khác ở châu Á, dưới áp lực từ các nhà hoạt động chính trị địa phương, Mỹ đã phải đóng cửa hai căn cứ quân sự ở Philippines vào năm 1991, rút gần 15.000 binh sỹ ở nước này và thay thế một dàn xếp đặt căn cứ lâu dài bằng một thỏa thuận khiêm tốn hơn: “Thỏa thuận Các lực lượng thăm viếng”. Trong những năm gần đây, Washington đã đàm phán về “các hiệp định hợp tác” với nhiều nước trong khu vực, bao gồm cả kẻ địch cũ của mình là Việt Nam, nhưng đã không xây dựng được bất kỳ căn cứ mới đáng kể nào. Ngoài các lực lượng ở Nhật Bản và Hàn Quốc, các binh sỹ trên các tàu chiến và tàu ngầm, sự hiện diện quân sự của Mỹ ở phần còn lại của khu vực này là không đáng kể.
Dĩ nhiên, việc cắt giảm binh sỹ và đóng cửa các căn cứ không nhất thiết là những dấu hiệu rút lui. Xét cho cùng, Lầu Năm Góc đang tập trung vào sự chuyển đổi sang một tư thế chiến đấu linh hoạt hơn, xem nhẹ các căn cứ cố định và chú trọng vào các đơn vị phản ứng nhanh nhẹ nhàng hơn. Trong khi đó, việc Mỹ hiện đại hóa các lực lượng của mình có nghĩa rằng hỏa lực của Mỹ đã tăng lên ngay cả khi sự hiện diện của nước này ở Thái Bình Dương đã suy giảm. Ngoài ra, Mỹ đã nhấn mạnh vào việc triển khai các lực lượng tác chiến đặc biệt như một phần của các hoạt động chống khủng bố ở những nơi như Philippines, Thái Lan và Indonesia, trong khi đẩy mạnh triển khai nhiều lớp phòng thủ tên lửa đạn đạo ở khu vực. Tất cả những chính sách này đã đi trước chiến lược “xoay trục”.
Tuy nhiên, đường xu hướng kể từ những năm 1970 ngày càng trở nên rõ nét. Ngay cả khi năng lực được nâng cấp, các lực lượng Mỹ cũng đã từ từ dịch chuyển sang một tư thế ngoài đường chân trời ở châu Á, với việc các căn cứ quân sự ở Guam và Hawai ngày càng trở nên quan trọng trong khi những căn cứ ở Hàn Quốc và Nhật Bản thì âm thầm xuống cấp. Khi rút lui dần, Washington cũng gia tăng sức ép đối với các đồng minh, buộc họ phải chi trả nhiều hơn để hỗ trợ các lực lượng của Mỹ đồn trú tại các vùng lãnh thổ của các nước này, mua các hệ thống vũ khí đắt đỏ hơn của Mỹ và tăng cường quân đội của riêng họ. Như Mỹ từng tìm cách “Việt Nam hóa” và “Iraq hóa” các lực lượng quân sự ở các nước mà Mỹ đã rút quân khỏi, Mỹ đã thực hiện chiến lược “châu Á hóa” từ từ của riêng mình ở khu vực Thái Bình Dương.