Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2014

BÀI KHỔNG (#3)

Chủ thuyết trị quốc của Khổng Khâu là sử dụng “nhân trị” và “đức trị”. Có nghĩa những kẻ làm quan phải qua một quá trình tu nhân tích đức trên cơ sở giáo lý của thánh hiền.

Dựa vào điều đó, bạn Khâu đã thành công trong việc thần thánh hóa tầng lớp cai trị. Đồng thời phân tầng xã hội một cách rõ rệt theo đẳng cấp, và những kẻ cai trị luôn là tầng lớp trên.

Chính vì thế, chủ thuyết của bạn Khâu đã cố tình đánh tráo các khái niệm và chuẩn mực của xã hội nhằm phục vụ tầng lớp cai trị. Biến sự khen thưởng công lao của người dưới theo quy định của pháp luật thành ân huệ do họ ban phát. Biến sự tuân thủ pháp luật của kẻ dưới thành sự phục tùng uy quyền cá nhân của người ở trên.

Điều đó khiến cho việc phân biệt giữa kẻ trên người dưới, kẻ sang người hèn được duy trì trong xã hội theo hướng độc đoán và vô pháp. Có nghĩa kẻ có quyền lực luôn tạo ra quyền uy riêng để bắt kẻ ở dưới chịu ơn và phục tùng. Và ngược lại kẻ dưới phải mang ơn và chấp nhận phục tùng kẻ trên thay vì tuân thủ pháp luật.

Chủ thuyết này luôn được tầng lớp cai trị phương Đông áp dụng triệt để cũng trên cơ sở đánh tráo hệ tư tưởng của bạn Khâu trong việc giải thích mối quan hệ của con người trong xã hội vào việc trị quốc. Bởi vì như thế, tầng lớp cai trị sẽ hình thành một bức tường bất khả xâm phạm đối với pháp luật do chủ thuyết người trên luôn luôn đúng, quan là cha mẹ của dân, chỉ có con cái sai chứ cha mẹ không thể sai.

An-nam hơn nghìn năm bị “nước mẹ” đô hộ. Thế nên chủ thuyết của bạn Khâu đã ngấm vào máu của tầng lớp cai trị, và là thứ bùa hữu hiệu để đảm bảo đặc quyền đặc lợi của họ trước đám cần-lao thối tai khai bẹn.

An-nam thời hiện đại, chủ thuyết của bạn Khâu vẫn được áp dụng triệt để. Đó chính là quan điểm người lãnh đạo phải “vừa hồng vừa chuyên”. Có lẽ quan điểm này xuất phát từ câu nói “có tài không có đức là người vô dụng, có đức không có tài làm việc gì cũng khó”.

Dĩ nhiên, quan điểm này nhặt nhạnh từ chủ thuyết “đức trị” của bạn Khâu. Trong Luận ngữ, bạn Khâu nói “Làm người có nết hiếu, đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên” và “Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân”. Có nghĩa, bạn Khâu cho rằng hiếu đễ là cái gốc của đức. Có đức, có nhân mới có thể là người quân tử. Và đã là người quân tử thì đáng được nắm quyền trị dân.

Một điều bạn Khâu nhầm lẫn là cái hiếu, đễ nó nằm trong huyết quản của mỗi con người, được giữ gìn thông qua mối quan hệ huyết thống và được giáo dưỡng bởi các mối quan hệ trong xã hội. Vì thế khi bạn Khâu cho rằng phải có học mới đạt được cái tinh vi của đạo và mới trở thành người quân tử thì chính là sự ngụy biện và đánh tráo bản chất sự việc.

Quay lại vấn đề “hồng-chuyên”, như đã nói ở trên, sự hiếu đễ luôn tồn tại trong mỗi con người, và được bồi đắp, gìn giữ qua quá trình giáo dưỡng của gia đình và xã hội. Có nghĩa là bất cứ con người nào cũng có nhân, có đức. Mức độ nhân đức đến đâu phụ thuộc vào quá trình giáo dưỡng của gia đình, xã hội và giáo dục của nhà trường.

Thế nên, những kẻ tài luôn nhận thức rõ những vấn đề về nhân, về đức. Và khi họ không ở dạng tham, sân, si thì họ luôn gìn giữ được cái nhân, cái đức trong con người họ.

Vì vậy, nói con người “có tài không có đức” là một sự đánh tráo bản chất có mục đích. Bởi vì cái tài có thể chứng minh cụ thể, có cái đức lại rất vô hình. Khi đưa ra quan điểm mù mờ như thế, có nghĩa những kẻ có dã tâm tham, sân, si sẽ có cơ hội để tạo một vỏ bọc an toàn bằng chữ “đức” và sử dụng nó để vùi dập chữ “tài”.

Đấy là lý do tại sao hơn nửa thế kỷ qua, An-nam hình thành nên một tầng lớp trí thức hóa lưu manh và lưu manh giả danh trí thức. Theo chủ thuyết của bạn Khâu, những kẻ đó chính là những người quân tử và được nắm quyền trị dân.

Dĩ nhiên, những người tài thực sự không thể lưu manh hóa thì sẽ trở nên cung cúc chấp nhận được ban ơn để tồn tại hoặc trở nên bất mãn và chửi đời.

Thế nên, An-nam sẽ không bao giờ trở thành rồng thành hổ trong khu vực khi mà xã hội bị chi phối bởi tầng lớp “ngụy quân tử” này.

Và dĩ nhiên, để An-nam thoát khỏi bi kịch thì điều kiện tiên quyết là vứt ngay tư tưởng của bạn Khâu vào trong sọt rác.

Khổng Khâu nói: “Người ta không thể làm bạn với cầm thú; ta không sống chung với người trong xã hội này thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ thịnh trị thì Khâu này cần gì phải đổi nữa?”.

Trường Yên đáp: “Giá trị và vai trò của mỗi con người trong xã hội phải được xác lập một cách rõ ràng. Phải phân biệt rõ người ngay kẻ gian, người tài kẻ kém. Nếu thiên hạ mà rõ ràng như thế, xã hội được công bằng như thế, người ngay không sợ kẻ gian, kẻ tiểu nhân không thể hà hiếp người quân tử thì Trường Yên ta đâu cần phải bài xích ông như thế”.

(@ by Baron, 2014) 
Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet. 

Đọc thêm: 

Được đăng bởi Bau Trinh Xuan

THỦ TƯỚNG MALAYSIA CẢM ƠN VIỆT NAM GIÚP TÌM KIẾM MÁY BAY MẤT TÍCH MH370



Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Malaysia Najib

Tại cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 4.4, nhân chuyến thăm tại Việt Nam, Thủ tướng Malaysia Najib Tun Razak bày tỏ sự đánh giá cao và lời cảm ơn chân thành tới Chính phủ VN về sự giúp đỡ trong công tác tìm kiếm, cứu nạn máy bay mất tích MH370. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gửi lời thăm hỏi và chia buồn sâu sắc tới Chính phủ, người dân Malaysia và gia đình các nạn nhân trên chuyến bay MH370.

Malaysia mong muốn tiếp tục nhập khẩu gạo từ Việt Nam

Thủ tướng Malaysia Najib tới Việt Nam ngay sau chuyến đi đến Australia - nơi ông trực tiếp chứng kiến các hoạt động của nhóm tìm kiếm MH370.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì lễ đón chính thức người đồng cấp Malaysia tại Phủ Chủ tịch sáng 4.4.

Trong cuộc hội đàm sau đó, hai nhà lãnh đạo đã nhất trí thúc đẩy việc ký kết các thỏa thuận hợp tác trong nhiều lĩnh vực, như thỏa thuận về phối hợp tuần tra chung và thiết lập đường dây nóng giữa hai nước, bản ghi nhớ cấp chính phủ về thương mại gạo, bản ghi nhớ về tuyển dụng lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia; đồng thời khuyến khích tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực tiềm năng khác như năng lượng, giao thông, vận tải, giáo dục, du lịch, luật pháp, tư pháp.

Lễ đón Thủ tướng Malaysia tại Hà Nội. 

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, hai nhà lãnh đạo đã nhất trí đưa mục tiêu kim ngạch song phương cán mốc 11 tỉ USD trước 2015. Hiện Malaysia là đối tác thương mại thứ ba trong ASEAN và thứ chín trên thế giới của VN, với kim ngạch thương mại đạt 9 tỉ USD trong 2013. Malaysia cũng là đối tác đầu tư lớn thứ tám trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào VN với số vốn đầu tư hơn 11 tỉ USD.

Theo Thủ tướng Malaysia, thương mại hai chiều giữa VN và Malaysia tăng 67% từ 2010 tới 2013. Ông cam kết sẽ khuyến khích các doanh nghiệp Malaysia tăng vốn đầu tư vào Việt Nam. 

“Liên quan đến Bản ghi nhớ mà hai bên mới ký kết, chúng tôi kỳ vọng sẽ có một thỏa thuận bổ sung về thương mại gạo để Malaysia tiếp tục nhập khẩu gạo từ Việt Nam. Hiện Việt Nam đáp ứng 60% nhu cầu nhập khẩu gạo của Malaysia” – Thủ tướng Malaysia cho hay.

Thủ tướng Najib Tun Razak khẳng định, hai bên sẽ khuyến khích Petronas (Malaysia) và PetroVietnam làm việc chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực khai thác chung hiện có và các lĩnh vực hợp tác tiềm năng trong tương lai. “Tôi cam kết Malaysia sẽ tiếp tục hỗ trợ các cơ hội đào tạo cho Việt Nam theo khuôn khổ chương trình Hợp tác kỹ thuật Malaysia” – ông nói.

Sớm nâng tầm quan hệ lên đối tác chiến lược

Hai nhà lãnh đạo Việt Nam-Malaysia cũng đã thảo luận tình hình của các ngư dân Việt Nam và vấn đề họ đang gặp phải. Thủ tướng Malaysia cam kết “nghiêm túc xem xét đề nghị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về trường hợp ngư dân Việt Nam bị bắt ở Malaysia”.

Hai bên cũng nhất trí nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, tự do an ninh an toàn hàng hải và hàng không ở biển Đông, đề cao các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, và phấn đấu sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (COC). 

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Việt Nam hết sức ủng hộ Malaysia đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN vào năm 2015.

Trong khuôn khổ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hai bên nhất trí sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau thúc đẩy kết thúc đàm phán; đồng thời, bảo đảm dành sự linh hoạt thời gian chuyển đổi hợp lý, hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực thực thi cho các nước đang phát triển, trong đó có VN và Malaysia. 

Trên cơ sở quan hệ hữu nghị tốt đẹp, hợp tác toàn diện giữa VN và Malaysia, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Malaysia đã thống nhất giao bộ ngoại giao hai nước thảo luận để sớm trình quyết định nâng tầm quan hệ song phương lên đối tác chiến lược trong thời gian sớm nhất.

BÀI KHỔNG (#2)

Trong Tam cương, bạn Khổng đưa mối quan hệ quân-thần lên đầu. Bạn í nói: “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung”.
Dĩ nhiên, ai cũng biết bạn Khổng nói để đề cao cái Trung-Lễ-Nghĩa, đề cao giá trị của người quân tử, và tất yếu là phục vụ cho tầng lớp cầm quyền.

Xét một cách toàn diện, vua phải ra vua và thần phải ra thần. Vua sáng thì không có thần bất trung. Vua không những là người cầm thuyền trượng quyền lực của một quốc gia, mà còn “đưa ra” pháp luật để từ quan lại đến cần lao phải nghe theo trong việc trị quốc. Lại dĩ nhiên, đã là vua sáng thì luôn đưa ra pháp luật nghiêm minh, mà pháp luật đã nghiêm thì không sinh ra thần bất trung.

Thế nên, bạn Khổng đưa ra chủ thuyết trên thì bạn lại khuyến khích con người ta Bất Trung-Bất Lễ-Bất Nghĩa.

Giả sử vua tàn ác bạo ngược, hoang dâm vô độ, để cho cần lao lầm than, ai oán lên tận trời xanh mà người quân tử vẫn phục tùng và tuân thủ những điều sai trái đó thì là cái loại người trời không dung, đất không tha, không Bất Trung-Bất Lễ-Bất Nghĩa mới là lạ.

Để bảo vệ thầy của mình, bạn Mạnh học trò bạn Khổng ngụy biện rằng, loại vua như thế không phải là vua. Ô hay, thế không phải là vua thì là cái loại gì hở Mạnh?

Quay lại xứ An-nam. Hệ tư tưởng của bạn Khổng đã ăn sâu bám rễ vào tư duy từ quan lại đến cần lao. Thế nên, quan lại luôn mặc định “Tao làm quan là chúng mày phải phục vụ”, còn cần lao cũng luôn mặc định “Mình làm dân thì phải chấp nhận bị bóc lột, áp bức”.

Và giữa hai quan niệm trong mối quan hệ quan-dân này, sinh là một lũ điếm bút có tý chữ nghĩa, bẻ cong sự thật, lấy hệ tư tưởng của bạn Khổng để áp đặt cần lao nói chung và những chủ thuyết trái chiều, không có lợi cho quan lại nói riêng.

Làm quan, là phải cống hiến công sức để dân giàu nước mạnh. Phải nghe dân, thương dân thì khi nước khó có dân lo, nước bị xâm chiếm có dân giữ.

Đằng này, nhờ bọn điếm bút bẻ cong cái Bất Trung-Bất Lễ-Bất Nghĩa của bạn Khổng thành cái Trung-Lễ-Nghĩa để áp đặt cần lao, nhằm phục vụ cho lợi ích riêng của mình thì dân không yên, nước không nguy mới là lạ.

An-nam, muốn ngẩng mặt lên chơi với đại đồng tiến bộ thế giới, không vứt tư tưởng của bạn Khổng vào sọt rác, thì đừng mong đến ngày đó.

(@ by Baron, 2014)

Được đăng bởi Bau Trinh Xuan

BĂNG HOẠI ĐẠO ĐỨC

Café sáng thứ 7 (#27): Băng hoại đạo đức

1. Báo chí lá ngón An-nam, ngày qua ngày, kiếm cơm và làm giàu bằng cách giật tít câu vìu các tin cướp hiếp giết, hở ngực hở mông và các sì-căng-đan về tình ái cũng như đời tư của những “người của công chúng”.

Hầu như ngày nào cũng có vài vụ án cướp hiếp giết được đưa lên, từ báo in đến báo mạng. Vấn đề không phải đưa lên với mục đích cảnh báo răn đe, mà lại chỉ để đánh vào cái thị hiếu khát máu, bạo lực và dâm loạn của phần lớn cần lao An-nam thối tai khai bẹn. Các bạn có thể minh chứng điều này qua nhà thông thái đốc-tờ Gúc.

Và hậu quả tất yếu là reo rắc vào những cái đầu non nớt của những mầm non tương lai của đất nước lẫn những già hói óc phẳng như láng xi-măng với dục vọng đê hèn lấn át đạo đức và lòng tự trọng những sự tò mò, kích động lẫn bản năng thú vật.

Ví dụ chỉ trong 2 ngày, gần chục vụ việc như vậy tràn lan trên báo mạng: Nào là con trai đâm chết cha ở bãi rác, con trai giết mẹ chém anh, 2 con gái đánh và chửi bố, bác họ làm cháu mang bầu 6 tháng, quan hệ bất chính nên chị dâu và em chồng cùng tự tử, cụ bà 75 tuổi bị sát hại trong nhà, cặp đôi lõa thể chết trong nhà nghỉ, sát thủ đẹp trai giết bạn gái vì ghen tuông, bị đâm chết khi ngăn cản va chạm, học sinh lớp 8 đấm chết bạn, nữ sinh đánh hội đồng và lột áo đối thủ,…

Mặc dù không muốn quy chụp, nhưng rõ ràng có một sự ảnh hưởng ghê gớm đến suy nghĩ và hành động của lớp trẻ và những kẻ thiếu nhân cách từ những “bản tin đen” trên báo chí lá ngón.

Một trong những nhiệm vụ của báo chí cách mạng là tích cực đấu tranh, góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội, phục vụ mục tiêu ổn định để phát triển xã hội. Thế nhưng chỉ cần không chạm vào các “vùng cấm” là báo chí lá ngón xứ An-nam mặc sức tung hoành, kiếm những đồng tiền bẩn thỉu trên sự suy thoái đạo đức xã hội.

Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo có lẽ chỉ giản đơn như ý kiến của nhà báo Trần Quang “xử sự đúng đắn để ngăn ngừa những hành vi không đúng đắn”. Thế nhưng hiện nay, có bao nhiêu phóng viên, nhà báo đã “xử sự đúng đắn”? Và có bao nhiêu “hành vi không đúng đắn” được hình thành từ những bài báo “đen”?

Trong một xã hội mà thước đo giá trị của con người được quy bằng vật chất thì đạo đức nghề nghiệp là một điều quá xa xỉ. Bởi vì, người có lòng tự trọng bản thân và tự trọng nghề nghiệp không thể bán rẻ đạo đức và lương tâm để xây dựng giá trị bản thân trong xã hội. Và xã hội lại “cực kỳ hiếm” những người xem thường các giá trị vật chất và danh vọng.

Xã hội bất ổn, các giá trị đạo đức bị đảo ngược chắc chắn có sự đóng góp không nhỏ của những kẻ mang trong mình dục vọng thấp hèn dưới tấm áo khoác nghề nghiệp mỹ miều là phóng viên, nhà báo.

Thế mới nói, khốn nạn nhất trong tất cả các loại điếm là điếm bút.

2. Các buổi “điều trần” của các bộ trưởng tại Ủy ban thường vụ Quốc hội lại tiếp tục đưa đến cho cần-lao những tiếng cười chua chát và những cái lắc đầu ngán ngẫm bởi cách trả lời vòng vo, ngụy biện.

Chỉ có mỗi quả dưa hấu mà 2 bộ trưởng vần mãi không xong. Bộ trưởng Công thương cho rằng ứ đọng dưa hấu đã diễn ra nhiều năm nay, và nguyên nhân chính là do cửa khẩu quá chật hẹp. Đỡ đạn giùm bộ bạn, bộ trưởng Nông nghiệp bổ sung thêm là tại người dân mở rộng diện tích trồng và dưa hấu năm nay được mùa. Ông Phát hứa là “sẽ rút kinh nghiệm và có biện pháp tốt cho người dân”(!?).

Không hiểu đến bao giờ thì những vụ việc tương tự mới không còn xảy ra trong nghị trường. Bởi vì những sự việc này quá nhỏ trong một khối công việc quá lớn của các bộ trong điều hành. Vả lại những vụ việc này, chỉ cần một lãnh đạo cấp Cục có thể giải quyết thỏa đáng chứ không đến mức các bộ trưởng phải quanh co trước nghị trường như thế.

Thêm nữa, ông Hoàng nói vụ việc trên đã xảy ra nhiều năm, ông Phát hứa sẽ rút kinh nghiệm và đề xuất biện pháp tốt. Cả ông Hoàng và ông Phát đều làm bộ trưởng hơn một nhiệm kỳ rưỡi, nghĩa là có khoảng 7 năm ngồi ghế bộ trưởng. Thế mà có mỗi quả dưa hấu không giải quyết được thì không rõ những việc khác sẽ như thế nào? Và không biết ông Phát còn bao nhiêu thời gian để rút kinh nghiệm nữa?

Khi có mặt bộ Y tế giải trình thì không thể không nhắc đến bà bộ trưởng, một người luôn có những câu trả lời “nổi tiếng” trước nghị trường, chính phủ và báo giới. Nổi tiếng không phải vì bà bộ trưởng giỏi giang, làm tốt trả lời hay. Mà nổi tiếng vì làm dở, trả lời cực thiếu i-ốt và giống như cán bộ phong trào cấp cơ sở lần đầu phát biểu trước đám đông.

Vẫn liên quan đến vấn đề y đức của y bác sỹ trong khám chữa bệnh, bà Tiến nói: “bệnh nhân đi khám chữa bệnh thì có thể khỏi bệnh hoặc không và cũng có thề để lại biến chứng, thậm chí tử vong”. Đáng ra đây là câu nói của một cần-lao thiếu hiểu biết và bi quan với ngành y tế chứ không phải được phát ngôn từ mồm bà bộ trưởng Y tế trước nghị trường.

Các ông bà bộ trưởng nói trên chắc chắn không dốt, không đần, không thiếu năng lực. Bởi vì họ có đầy đủ học hàm, học vị chuyên môn và đang ngồi ghế tư lệnh ngành. Thế nhưng “có lẽ” họ phấn đấu trèo lên cái ghế bộ trưởng là vì danh, vì lợi và họ giữ ghế đó vì họ, vì những người đã giúp họ có được cái ghế đó chứ không phải vì dân vì nước. Chính vì vậy, cái họ quan tâm là làm sao để ngồi ngay ngắn từ lúc nhận chức đến khi rời ghế để nghỉ hưu.

BÀI KHỔNG (#1)

Một trong những chủ thuyết về đàn bà của bạn Khổng bên Tàu Khựa là “Tam tòng”. Có nghĩa, tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

Thế nên, dưới con mắt của bạn Khổng, đàn bà chỉ là đối tượng bị sở hữu, bị đem mua bán, phải tuân thủ những qui định khắt khe của gia đình và xã hội.

Bạn Khổng đề cao Nhân, Lễ Nghĩa. Nhưng xét quan điểm của bạn về đàn bà nêu trên, lại là Bất Nhân, Bất Lễ và Bất Nghĩa.

Nhớ xưa An-nam có vụ xử án hộ chồng của Bà huyện Thanh Quan về việc một gái đệ đơn xin được ly hôn để lấy chồng khác vì chồng cũ ruồng bỏ, ngược đãi. Bà đã phê rằng:

Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng: Xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!

Mới thấy, tư duy của bạn Khổng về đàn bà chả bằng cạp váy của gái già An-nam. Ấy thế mà cần lao xứ này tôn bạn í lên làm thánh và để đứng trên cả ông bà ông vãi để thờ.

An-nam này không man di mọi rợ mới là lạ.

(@ by Baron, 2014)

Được đăng bởi Bau Trinh Xuan

CÓ MỘT CỤC HÀNG KHÔNG "VÔ DỤNG"

(GDVN) - Tàu ngầm Trường Sa đã được thử nghiệm thành công, còn ước mơ bay lên trời cao có nguy cơ chết yểu vì …Cục hàng không Việt Nam.


Nhân sự kiện chạy thử nghiệm thành công tàu ngầm Trường Sa trong hồ nhân tạo làm nức lòng người hâm mộ thì hàng trăm tiến sỹ cục HKVN lại nỗ lực ngăn cản một dự án chế tạo máy bay “Made in Vietnam” từ những năm đầu thế kỷ XXI. Tiến sỹ Trần Đình Bá –Hội Khoa học kinh tế VN đã có bài viết phản ảnh về một việc làm cửa quyền của Cục HKVN phá hỏng dự án quốc gia Chế tạo máy bay siêu nhẹ VAM 2 có ý nghĩa lớn trong việc tuần tra bảo vệ chủ quyền biển đảo, phun thuốc trừ sâu, khảo sát điều tra rừng, giải quyết vấn nạn quốc gia về giao thông vận tải…

Khác với dự án chế tạo Tàu ngầm Trường Sa, Yết Kiêu hay Máy bay trực thăng tự phát của những tư nhân đam mê sáng tạo…, dự án chế tạo Máy bay siêu nhẹ “Made in Vietnam” được Thủ tướng giao nhiệm vụ từ những năm 2003. Vậy mà đất của ta, biển của ta, trời của ta mà máy bay VAM – 2 sơn cờ đỏ sao vàng do các Viện sỹ giáo sư tiến sỹ - chuyên gia hàng không nghiên cứu sản xuất thành công lại không được phép bay đang là một nghịch lý đến mức quyền tự do và lợi ích của quốc gia bị xâm phạm .

Cái lý của Cục Hàng không

Dự án “chào Thiên niên kỷ mới” có từ những năm “mở màn” của “Thiên niên kỷ” thứ 3 và thế kỷ XXI. Tự tay Thủ tướng Phan Văn Khải lúc đó đã ký công văn số 55/TB-VPCP–18/4/2003 giao cho GS.TS -Viện sỹ hàn lâm quốc tế Nguyễn Văn Đạo – chủ tịch hội Cơ học Việt Nam làm chủ nhiệm đề tài nghiên cứu chế tạo máy bay cánh quạt loại nhỏ 2 chỗ ngồi để ngành hàng không VN được bay lên từ đôi cánh của chính mình mang “màu cờ sắc áo”. GS TS Nguyễn Thiện Nhân lúc đó là Phó Chủ tịch UBND TP.HCM đánh giá cao dự án và cam kết thành phố sẽ hỗ trợ tối đa, huy động các nguồn lực để tham gia đề án này, sẵn sàng ứng trước một phần chi phí trong giai đoạn ban đầu.

Nhóm các nhà khoa học đã cùng với Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ mới, tập hợp những kỹ sư trẻ của bộ môn hàng không thuộc Trường ĐH Bách khoa TP.HCM và Trường ĐH Bách khoa Hà Nội để thiết kế chế tạo máy bay, bắt tay nghiên cứu chế tạo ngay sau khi có chỉ đạo của Thủ tướng.

Dự án được các doanh nghiệp Việt Kiều hưởng ứng nhiệt liệt và tài trợ vì họ có chung dòng máu Lạc Hồng – muốn Việt Nam được “sánh vai với các cường quốc” về công nghệ hàng không. Ông Nguyễn Sang, Giám đốc NT Enterprise Inc và ông Trần Trung Tín Giám đốc Asean Telecom Network đặt nhiều hy vọng vào tính khả thi của đề án mà còn hứa sẵn sàng tiêu thụ các sản phẩm nếu đạt tiêu chuẩn quốc tế, với số lượng đặt hàng đợt đầu tiên là trên 100 chiếc, đồng thời vận động đầu tư cho dự án 5 triệu USD.

Công việc nghiên cứu chế tạo máy bay VAM – 1 sớm hoàn thành, nhưng các thủ tục xin phép bay thử nghiệm VAM-1 kéo dài do sự cửa quyền “xin – cho” từ Cục HKVN nên mãi đến tháng 7/2005 đề tài mới nghiệm thu đợt 1, và đến 12/2005 mới bắt đầu được bay thử nghiệm.

Chờ “dài cổ” để được cấp phép, vậy mà việc kéo máy bay ra chạy thử kỹ thuật tại sân bay Phước Long – Bình Phước phải hoãn vì đơn vị quản lý sân đã cho thuê mặt sân để phơi nông sản chưa kịp thu hồi.
Ngày 8/12/2005, chiếc VAM-1 do phi công Phạm Duy Long lái cất cánh tại sân bay Long Thành đã bay thủ nghiệm thành công - Ảnh: Lê Trọng Sành


Mãi tới 18/12/2005 máy bay VAM-1 sơn cờ VN do phi công Phạm Duy Long lái đã cất cánh thành công tại sân bay Nước Trong – Đồng Nai với 3 lần cất hạ cánh nhẹ nhàng. Sau khi tiếp đất phi công Long đã ôm chặt một sỹ quan không quân khóc nức nở… trước mắt Hội đồng giám khảo bay thử nghiệm gồm các giáo sư tiến sỹ ở Bộ Khoa học - Công nghệ, Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải do đại tá không quân Lương Quốc Bảo làm chủ tịch .

VAM–1 sơn cờ đỏ sao vàng bay cao trên 1.000 m, với kết quả khả quan này, Hội Cơ học Việt Nam đã quyết định chế tạo máy bay siêu nhẹ VAM–2 nội địa hóa, ngoại trừ động cơ máy bay do Áo sản xuất. Các giáo sư tiến sỹ đã đầu tư nhiều công sức nghiên cứu cải tiến và tạo kinh phí để cho ra đời VAM–2. Chiếc máy bay siêu nhẹ này nặng khoảng 450 kg, tốc độ bay 140 km/giờ và tầm bay là 400 km, dùng xăng A92 như xe gắn máy với công suất động cơ 50 mã lực. Chỉ cần khu đất khoảng 1 ha với đường băng dài 200m là trở thành bãi đáp cho VAM–2. Việc học lái cũng đơn giản và việc bảo quản dễ dàng như xe gắn máy mở ra một tiềm năng lớn .
Tháng 3/2007, một hội đồng khoa học gồm nhiều GS-TS và chuyên gia có uy tín đã nghiệm thu kỹ thuật chiếc máy bay VAM-2. Đây cũng là chiếc máy bay dân dụng siêu nhẹ đầu tiên được sản xuất tại nước ta, mở ra những hứa hẹn cho ngành hàng không dân dụng Việt Nam.

Những tưởng với sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng, sức lao động sáng tạo một đội ngũ Viện sỹ hàn lâm, giáo sư tiến sỹ, kỹ sư, cùng với việc đánh giá của Hội đồng khoa học, hội đồng nghiệm thu thử ngiệm VAM 1 thành công thì VAM 2 càng thành công hơn. Thời gian để hoàn tất thủ tục bay thử của VAM - 1 là 2 năm, còn VAM - 2 từ đó đến nay đợi chờ thủ tục để cất cánh. Như vậy từ khi có quyết định của Thủ tướng từ 2003 đến nay, máy bay VAM 2 “made in Vietnam” trở thành “bò sát” ngủ trọn một thập kỷ trên mặt đất. Dự án tầm quốc gia cùng sự nghiệp chế tạo máy, niềm tự hào của nền hàng không VN biến mất từ đó do bị “cảnh sát hàng không” tuýt còi. Cục Hàng không dân dụng cửa quyền tới mức vượt trên cả quyền hạn của Thủ tướng, thủ tiêu khát vọng cất cánh của cả một dân tộc, phủ nhận thành quả lao động sáng tạo của tất cả các Viện sỹ - GS.TS đã nỗ lực vì một sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.

Một “Bộ Hàng không” đang kìm hãm bầu trời trong bàn tay của họ ban phát quyền “xin – cho”, vừa kìm hãm các hãng hàng không trong bần cùng, vừa gây khó để trục lợi trong việc cấp phép bay và kéo lùi sự nghiệp hàng không tụt hậu nhất trong ASEAN.

Không để cục Hàng không dân dụng trở thành vô dụng"!

Khi một phi công VN trở thành nhà toán học vạch và tính được quỹ đạo cho tàu Apollo lên cung trăng và ứng dụng cho tàu “Con Thoi”, người VN trở thành phi hành gia châu Á đầu tiên bay vào vũ trụ từ những thập niên 60 của thế kỷ trước, thì giấc mơ chế tạo máy bay “Made in VN” để bay lên vẫn đang trong vòng bao vây cấm vận “vì lý do an ninh” của “cảnh sát hàng không”!

Chiếc máy bay siêu nhẹ “made in VN” mang cờ đỏ sao vàng đâu có mang bom đạn để đe dọa an ninh VN hay các nước. Nạn quá tải và thảm họa giao thông trên mặt đất khiến cho các doanh nghiệp phải bỏ tiền ra mua sắm máy bay và được bay, còn máy bay do VN sản xuất lại bị cấm bay là một điều phi lý.

Thời tiết, khí hậu, địa hình cùng trên 70 sân bay nước ta từ đất liền đến hải đảo đều rất phù hợp cho loại máy bay siêu nhẹ để có thể sử dụng cho nhiệm vụ điều tra nghiên cứu thổ nhưỡng, phun thuốc trừ sân, quản lý đất đai, khắc phục thiên tai, cấp cứu ý tế, du lịch, công vụ đến những phi vụ đặc biệt về quốc phòng – an ninh như tuần tra bờ biển, kiểm soát an toàn môi trường, thần tốc ngăn chặn tội phạm … trước vấn nạn nạn kẹt xe và tai nạn giao thông trên các quốc lộ, đặc biệt giúp cho cư dân vùng biển đảo khó khăn về giao thông được gần hơn với đất liền khi có biến động.

Câu hỏi, tại sao lại cấm máy bay do VN sản xuất cất cánh đang chiếu thẳng trách nhiệm vào lãnh đạo Cục HKVN – cơ quan quản lý Nhà nước về Hàng không dân dụng và thực thi luật HKDDVN đã được Quốc hội thông qua và đang có hiệu lực !

Giữa lúc Cambodia đã thành công chế tạo xe hơi điều khiển từ xa bằng điện thoại thông minh Smartphone, một nông dân Tây Ninh dám làm máy bay trực thăng mang cờ VN đi khắp thế giới, có một “Hai Lúa” mới học hết lớp 3 ở Lạng Sơn, chế tạo thành công thuốc trừ sâu bằng thảo dược, một “Hai Lúa” khác ở An Giang chế tạo thành công máy phun thuốc sâu điều khiển từ xa, một “Hai Lúa” nữa ở Quảng Bình chế tạo thành công chiếc xe xúc lật gắn ben 180 độ, được giới thầu xây dựng đánh giá cao.. v.v….vậy mà 1000 giáo sư tiến sỹ GTVT và hàng ngàn GS.TS về cơ học, động lực học, tự động hóa … với 50 trường đại học viện nghiên cứu về GTVT, Bách khoa “Made in VN” không có một “dấu ấn” nào về công nghệ hàng không hay xe hơi …là điều đáng hổ thẹn.

Giữa lúc thế giới hội nhập, giành những thành tựu rực rỡ về khoa học công nghệ thì hàng trăm tiến sỹ cục HKVN nghẽn mạch tư duy, sợ sệt trói chặt hàng không trong cảnh “gà què ăn quẩn cối xay”, ngăn cản việc máy bay VN cất cánh, đưa sự nghiệp hàng không nước nhà từ “bần cùng sinh móc túi”, “ bần cùng sinh cẩu thả “ tới “ bần cùng sinh … buôn lậu quốc tế”, chưa thoát ra khỏi tư duy nông dân, tác phong nhếch nhác luộm thuộm, cẩu thả … đang làm hoen ố hình ảnh VN trên trường quốc tế và nguy cơ bức tử sự nghiệp hàng không nước nhà, đẩy thực trạng giao thông nước nhà ngày càng quá tải và chồng chất thảm họa TNGT. Từ chức năng “dân dụng”, cục HKVN đã tự biến mình thành “vô dụng”! 

Hy vọng thành công của tàu ngầm Trường Sa thế hệ đầu tiên sẽ là “cú hích” cho hàng trăm giáo sư tiến sỹ Cục HKVN và bộ GTVT biết hổ thẹn trước nghị lực sáng tạo của nhân dân để không biến cục Hàng không “dân dụng” thành “vô dụng”.

Bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn riêng của tác giả, Tòa soạn giữ quyền biên tập, chỉnh sửa một số nội dung cho phù hợp.

TS. Trần Đình Bá

Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2014

ÔNG PHẠM ĐÌNH TRỌNG - ĐÃ NGU THÌ ĐỪNG TỎ RA NGUY HIỂM (Bài 1)

Khoai@


Sáng ra tình cờ đọc bài “Có đủ căn cứ pháp luật cho sự ra đời của những chính đảng mới” của Phạm Đình Trọng, nguyên Đại tá, nhà văn quân đội đã ra khỏi đảng CSVN, làm mình phì cười. 

Tôi phì cười vì ông nhà văn Phạm Đình Trọng nổi tiếng, hôm nay lại trổ tài chém gió như một “chuyên gia pháp lý“. Hóa ra cũng còn nhiều người có tuổi, kinh nghiệm đầy mình vẫn tỏ ra nguy hiểm khi thể hiện hiểu biết của mình về pháp luật bằng cách nói năng, viết lách văng mạng.

Mở đầu, Phạm Đình Trọng phê phán GS Vũ Minh Giang, thành viên Hội đồng Lý luận Trung ương khi trả lời BBC rằng:
Đề xuất việc thành lập đảng chính trị, nhất lại là đề xuất của những người đang là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam thì đấy là nguyện vọng nào đó, mong muốn nào đó của cá nhân hay nhóm cá nhân nào đó…nhưng mong muốn đó phải nằm trong khuôn khổ pháp luật…Theo hiểu biết của tôi thì chưa có hệ thống (pháp luật) đó” Và “Nhiều thành phần kinh tế phải có đa nguyên đa đảng chỉ là logic hình thức”.Phạm Đình Trọng lên giọng: “Ấp úng, quanh co, ông giáo sư trong Hội đồng lí luận Trung ương nói rất dài cũng chỉ đưa ra một nội dung rất ngắn và hồ đồ là: Chưa có căn cứ pháp lí cho việc thành lập chính đảng mới.
Haha, thế mà cũng học đòi lý luận. Đang nói về căn cứ pháp lý để có thể lập một chính đảng mới, thì ông lại “lầm đường lạc lối” sang phê phán kiểu dạy đời sặc mùi hận thù. 

Thôi, khỏi nói chuyện đó, bàn vào căn cứ pháp lý nhé ông Trọng.

Ông nói nguyên văn thế này: “Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, người Dân Việt Nam vẫn có đủ căn cứ pháp lí để lập lên chính đảng của mình khi cần thiết“, và ông đưa ra 3 căn cứ. 

Trước hết ta bàn về căn cứ thứ nhất mà ông đưa ra:
1. Không có luật nào và không có điều luật nào cấm người dân lập chính đảng. Người Dân được làm mọi việc pháp luật không cấm. Người Dân có đầy đủ quyền lập chính đảng của mình.
Ông đã đúng, khi ở Việt Nam không có Luật nào hoặc điều luật nào cấm người dân lập chính đảng cả. Nhưng ông nhầm, khi nói “Người Dân được làm mọi việc pháp luật không cấm” và vì thế “Người Dân có đầy đủ quyền lập chính đảng của mình“. Ồ, sao ông trẻ con thế, có phải pháp luật không cấm thì ông được làm đâu? Ông nên hiểu là người dân được làm những gì mà luật cho phép mới đúng ông ạ. Với kiêu lí luận của ông, thì ở Việt Nam hiện nay không có luật nào, không có điều luật nào cấm ông ỉa bậy trên phố. Và nếu như vậy thì ông được phép làm điều đó à? 

Đúng là không có điều nào cấm người dân lập chính đảng của mình, nhưng người dân muốn lập chính đảng thì phải tuân thủ những quy định của pháp luật về việc lập chính đảng đó. Ở đâu cũng vậy thôi, ngay tại nước Mỹ cũng vậy. Điều này có vẻ như ông GS Vũ Minh Giang đã đúng.

Về căn cứ thứ hai, ông viết:
2. Hiến pháp hiện hành cho người Dân quyền lập chính đảng khi điều 69 Hiến pháp 1992 hiện hành ghi: Công dân có quyền tự do ngôn luận. tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo qui định của pháp luật.Hội và đảng chỉ là hai cách gọi khác nhau của một tổ chức chính trị. Như khi đảng Cộng sản Đông Dương muốn giấu mình đi liền đổi tên thành hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Người Dân có quyền lập hội đương nhiên cũng có quyền lập đảng. Nhà nước chưa có luật về lập hội chưa có luật về tự do ngôn luận, tự do báo chí là trách nhiệm, là thiếu sót của Nhà nước. Không thể vì thiếu sót của Nhà nước mà tước đoạt quyền công dân cơ bản mà Hiến pháp đã bảo đảm cho người Dân.
Ông trích dẫn luật đúng đấy, chép lại như thế mà không bị sai đã là thành công lớn đối với ông rồi. 

Đoạn ông trích dẫn có ý nghĩa rất rõ ràng, không cần phải bàn cãi hay suy luận là: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo qui định của pháp luật". Những chữ in đậm màu đỏ chỉ ra các quyền mà người dân được hưởng, và không thấy có chỗ nào nói có quyền lập đảng cả. Như vậy, đoạn trích đó chả có ý nghĩa nào cả phải không ông nhà văn? Ấy là chưa kể đến cái đoạn “theo quy định của pháp luật“. Nghĩa là các quyền đó chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật mà thôi. 

Bàn thêm về hai từ: “Hội” và “Đảng” mà ông đánh đồng làm một và đều coi đó là “tên gọi của một tổ chức chính trị“. 

- Hội là “tổ chức quần chúng rộng rãi của những người cùng chung một nghề nghiệp hoặc có chung một hoạt động” – Từ điển Tiếng Việt 1997-2004.

- Đảng là “Nhóm người kết với nhau trong một tổ chức chính trị có mục tiêu, có điều lệ chặt chẽ: Đảng cộng sản; Đảng xã hội; Đảng dân chủ” – Từ điển Tiếng Việt 1997-2004.

Như vậy đã rõ, “Hội” hoàn toàn khác với “Đảng“.

Thiết nghĩ, khỏi phải phân tích sự giống và khác nhau giữa Hội và Đảng nữa phải không ông Phạm Đình Trọng? vì ông là nhà văn, từng là đại tá quân đội, từng là đảng viên 40 năm (thiếu mấy ngày) mà. Viết và trích từ điển như vậy để ông khỏi phải cả vú lấp miệng em mà lòe bịp thiên hạ. Nhưng qua đây người đọc cũng thấy được cái trình độ và cái tâm của ông rồi. Việc ông xin ra khỏi đảng là sáng suốt đấy, nếu không thì cái đảng kia họ cũng loại ông ra thôi, lúc đó thì có mà mặt mo ông nhỉ?

Giả sử, như ông lập luận, hội cũng chính là đảng đi chăng nữa, thì quá trình lập đảng đó vẫn phải tuân thủ các quy định của pháp luật. 

Bàn về căn cứ thứ ba, ông cho rằng:
3. Điều 52 của Hiến pháp 1992 hiện hành cho người Dân được quyền: Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Hơn ba triệu công dân Việt Nam có quyền lập lên đảng Cộng sản Việt Nam vậy thì hơn tám mươi triệu người Việt Nam còn lại cũng có quyền lập lên đảng chính trị của mình. Đó là là cơ sở pháp lí vững chắc bảo đảm cho mọi công dân Việt Nam được bình đẳng với những công dân đảng viên Cộng sản. Cấm công dân lập đảng chính trị của mình là vi phạm điều 52 Hiến pháp.
Nghe ông phân tích cũng có vẻ xuôi đấy. Nhưng sai lầm của ông là ở chỗ: Ông quên hay cố tình quên đi cái quyền lập đảng đó phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành. Mặt khác, ông cũng quên và cố tình lờ đi việc đảng CSVN thành lập và phát triển là đòi hỏi của công cuộc giải phóng dân tộc và cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ấy luôn gắn chặt với sự lãnh đạo của đảng CSVN.

Xin hỏi ông, trong khi tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, ngoài đảng CSVN thì có đảng phái chính trị nào dám thò mặt ra đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng hay không? Nếu không thì xin ông ngậm miệng lại. Đảng CSVN đã lãnh đạo dân tộc này làm cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, vậy hà cớ gì sau khi cách mạng thắng lợi lại phải đi chia sẻ quyền lực cho các đảng phái khác?

Ông cũng viết rằng “Điều 52 của Hiến pháp 1992 hiện hành cho người Dân được quyền: Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Hơn ba triệu công dân Việt Nam có quyền lập lên đảng Cộng sản Việt Nam vậy thì hơn tám mươi triệu người Việt Nam còn lại cũng có quyền lập lên đảng chính trị của mình“. Lập luận của ông cho thấy ông nông cạn lắm. Thế nào là bình đẳng trước pháp luật? Theo nghĩa chung nhất, bình đẳng trước pháp luật có nghĩa là mọi người đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo…Cần chú ý đến cụm từ “quyền và nghĩa vụ ngang nhau“, bởi đó là ý nghĩa căn cốt nhất của “bình đẳng”. Các ông có quyền nhưng phải gắn với nghĩa vụ với đất nước. Hỏi ông, các ông đã đóng góp được gì cho đất nước, cho dân tộc, cho cộng đồng? Hay các ông chỉ phá thối, chọc ngoáy vì hận thù cá nhân? Xin nói luôn, nghĩa vụ không chịu đóng góp thì đừng có mơ quyền gì.

Tóm lại, tôi không quan tâm đến ông Phạm Đình Trọng phê phán ông GS Vũ Minh Giang kia như thế nào, nhưng cả 3 căn cứ mà ông đưa ra đều không có cơ sở vững chắc. Đó chỉ là suy luận của một nhà văn chứ không phải là căn cứ pháp lý.

Tôi cũng không đồng ý với ông Phạm Đình Trọng trong kết luận của bài về “Tất cả sự lụn bại của xã hội Việt Nam, sự nguy khốn của dân tộc Việt Nam hiện nay là do sự thao túng quyền lực của một đảng độc tài theo đuổi một học thuyết sai lầm và tội lỗi, một đảng không vì lợi ích dân tộc mà chỉ vì lợi ích của một nhóm người cầm quyền trong đảng độc tài đó“. Nhưng tôi sẽ xin đề cập đến nội dung này ở một entry khác.

Đúng là già rồi mà vẫn còn ngu!